Tag: Chợ Lớn Sài Gòn

  • Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm

    Không ít người nhìn những bức ảnh xưa về Sài Gòn mà lòng ngậm ngùi….

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Học sinh ăn bò bía trên đường phố Sài Gòn những năm 1950.

    Quyển sách ảnh 150 hình bóng sài Gòn (NXB Trẻ, 2015) là thành quả của 10 năm sưu khảo, biên soạn những bức ảnh Sài Gòn xưa của NSNA Tam Thái, để kể lại câu chuyện vùng đất phồn hoa đô hội từ khi người Pháp đặt chân đến đô hộ, rồi đi qua thời mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông, cho đến tận ngày hôm nay.

    Tam Thái kể lại rằng có cụ già từ Đà Lạt xuống Sài Gòn xem triển lãm ảnh, biết tin quyển sách bèn tìm mua. Khi lật từng trang sách, cụ già xúc động, rưng rưng nước mắt. Hay có những người mua luôn 5 – 7 cuốn, không những cho mình mà cho luôn bạn bè, người thân như một món quà san sẻ kỷ niệm vùng đất Sài Gòn – Gia Định xưa.

    Cùng tìm về ký ức, nghệ sĩ nhiếp ảnh Tam Thái tiếp tục chia sẻ thêm một số bức ảnh Sài Gòn – Gia Định mà anh đã sưu tập và giới thiệu trong sách.

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Đường xe lửa Sài Gòn – Gò Vấp năm 1910. Người Pháp từng xây tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho, Sài Gòn – Chợ Lớn, Sài Gòn – Gò Vấp – Lái Thiêu – Thủ Dầu Một. Đến thời Ngô Đình Diệm, vì vắng khách nên các tuyến đường sắt ngưng hoạt động. Ga trung tâm của các tuyến đường sắt này nằm ở khu vực chợ Bến Thành ngày nay.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Con đường nối Sài Gòn – Chợ Lớn vào thế kỷ 19, thuở ấy còn rất hoang sơ, nay là đường Nguyễn Trãi.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Một chợ heo khu vực Phú Lâm cuối thế kỷ 19.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Vòng xoay Lăng Cha Cả thập niên 1950. Lăng thờ giám mục người Pháp Bá Đa Lộc, người có công giúp Nguyễn Ánh đánh triều Tây Sơn, nằm trên con đường Sài Gòn đi Cao Miên (đường Cộng Hòa ngày nay). Trước năm 1975, đây là một di tích văn hóa. Nhưng sau năm 1975, lăng bị giải tỏa, hài cốt giám mục Bá Đa Lộc được đưa về Pháp an táng.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Quang cảnh sân bay Tân Sơn Nhất đón chuyến bay cấp cứu vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng của Việt Nam, năm 1938. Trong một lần săn bắn ở Tây Nguyên, ông bị té gãy chân và được máy bay đưa về Sài Gòn cấp cứu.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Triển lãm mô hình phát triển Thủ Thiêm. Thời Ngô Đình Diệm, nhận thấy nếu phát triển khu trung tâm sẽ phá vỡ kiến trúc cũ thuộc địa, làm đảo lộn đời sống người dân nên chính quyền thời đó định bắc cầu, phát triển khu hành chính mới qua Thủ Thiêm. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên dự án này không thực hiện được. Hiện nay, quy hoạch phát triển Thủ Thiêm là khu hành chính mới đã được thành phố thông qua. Đoạt giải Nhất kiến trúc quy hoạch Thủ Thiêm là một công ty Nhật Bản.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Thuyền chiến của triều Nguyễn trên sông Sài Gòn thế kỷ 18, tranh vẽ của người Pháp. Thời kỳ này, giao thông đường bộ Bắc Nam còn hiểm trở, cho nên giao thông đường thủy là chính. Tư liệu cho thấy cả triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh đều có lực lượng thủy binh hùng mạnh, tiếp thu kỹ thuật đóng thuyền phương Tây. Những trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh trên đầm Thị Nại (Quy Nhơn) đáng được xem là những trận thủy chiến ác liệt nhất của lịch sử. Hằng năm, cứ khi trời trở gió nồm thì thủy binh Nguyễn Ánh từ Gia Định lại dong buồm ra miền Trung đánh quân Tây Sơn, đến khi gió bấc thì lại rút quân về. Dân gian có câu: “Lạy trời cho cả gió nồm/Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra”.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Bến Bạch Đằng năm 1956.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Logo Sài Gòn năm 1870. Khi chiếm Sài Gòn, người Pháp đã sáng tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sài Gòn 1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sài Gòn của người Pháp. Hiện nay, TP.HCM dù đã tổ chức các cuộc thi những vẫn chưa tìm được một logo chính thức cho thành phố hôm nay.

    “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng…” – khi xưa nhà vua Tự Đức nhớ thương người vợ mà viết nên câu thơ tha thiết. Vậy với những ai mơ bóng Sài Gòn, lần theo những bức ảnh này để có một hành trình kỷ niệm ngược thời gian chăng?

    Theo TTO

  • Giang hồ Sài Gòn trước 1975

    Giang hồ Sài Gòn trước 1975

    Diện mạo giang hồ thời Pháp thuộc

    Thời Pháp thuộc, giang hồ miền Nam phần lớn là những tá điền “dốt đặc cán mai”, một chữ bẻ đôi không biết, chịu không nổi ách áp bức, bóc lột của bọn cường hào, ác bá bèn bỏ xứ đi làm trộm cướp, y như nhân vật thầy giáo Hai Thành trong vở cải lương Đời cô Lựu.

    Giang hồ người Hoa vùng Chợ Lớn đội lốt đoàn lân

    Giang hồ người Hoa vùng Chợ Lớn đội lốt đoàn lân.

    Những nông dân tay lấm, chân bùn này trôi dạt lên Sài Gòn – Chợ Lớn sống lang thang ven kênh rạch, bến xe thổ mộ, nhà ga… Ban ngày, họ nai lưng làm cu-li. Tối đến, họ cởi áo bôi mặt nhọ nồi, lận mã tấu trong cạp quần hành nghề “đạo tặc”.

    Khắp Nam kỳ lục tỉnh thời kỳ này đừng hòng đào đâu ra một tay giang hồ quậy phá làng xóm hoặc trộm chó, bắt gà. Giang hồ thời Tây sống anh hùng mã thượng, “trọng nghĩa, khinh tài” và luôn luôn “kiến nghĩa bất vi” y như những nhân vật “quân tử Tàu” trong truyện Thất hiệp ngũ nghĩa, Thất kiếm thập tam hiệp. Cũng chính vì vậy, chính quyền thực dân Pháp cùng bọn tay sai ác ôn luôn ăn không ngon, ngủ không yên. Chúng tìm mọi cách bắt bớ, giam cầm, thậm chí lén lút thủ tiêu họ nhằm trừ hậu họa.

    Lãnh địa giới giang hồ hùng cứ vào những năm 20 – 30 thế kỷ trước là Chợ Lớn, Lăng Ông – Bà Chiểu, Xóm Thuốc (Gò Vấp), bến phà Thủ Thiêm, cầu Sắt (Đa Kao) và bến xe Lục tỉnh. Nét đặc biệt của giang hồ đầu thế kỷ 20 so với du đãng bây giờ chính là bản lĩnh. Tay anh chị nào cũng võ nghệ đầy mình, không giỏi quyền cước thì đừng hòng trụ vững ở cái thế giới “lắm người, nhiều ma” này.

    Khi có chuyện phải “đối thoại” với nhau bằng dao búa, họ không bao giờ ỷ lại vào lực lượng hùng hậu để “đánh hội đồng” theo kiểu “ruồi bu cùi bắp” như đám choai choai bây giờ mà sẵn sàng chơi “bặc-co” tay đôi “một chọi một”. Có thể kể đến cuộc đụng độ của Bảy Viễn với Mười Trí, quyền sư Mai Thái Hòa so tài với gã giang hồ Tư Ngang tại “hãng phân” Khánh Hội (Q.4), “thầy ngải” Nguyễn Nhiều bẻ lọi tay trùm du đãng khu lò heo Gia Định – Phillip – ở cầu Sơn (Thị Nghè)…

    Giang hồ xưa tuy nghèo chữ nghĩa nhưng giàu chữ “tín”, cư xử với nhau rất “nghĩa khí”, bởi thế mới sinh ra từ “điệu nghệ” do từ “đạo nghĩa” đọc trại ra. Thời kỳ này, giang hồ Sài Gòn ít nhiều chịu ảnh hưởng từ nhân vật trong các pho truyện “Tàu” được bán khắp các bến xe do nhà in Tín Đức Thư Xã ấn hành.

    Giang hồ Sài Gòn trước 1975
    Giang hồ khu Cầu Muối (Sài Gòn) thập niên 1950.

    Thực tế cho thấy, không ít tay du đãng sừng sỏ từng lấy biệt danh là Võ Tòng, La Thành, Đơn Hùng Tín, Tiểu Lý Quảng, Triệu Tử Long, Đông Phương Sóc… như là một thứ “danh thiếp”nhằm khẳng định tên tuổi trong chốn giang hồ.

    Những cuộc “long tranh, hổ đấu”

    Gần một thế kỷ đã trôi qua nhưng trong võ lâm giang hồ vẫn tồn tại 2 câu chuyện thuộc vào hàng “điển tích”. Câu chuyện thứ nhất xảy ra vào năm 1936, trùm du đãng Bảy Viễn bị đày ra đảo Côn Lôn vì can tội cướp tiệm vàng. Tại đây, hắn bị biệt giam tại phòng 5 và đã đụng độ tên cọp rằn ác ôn người Miên tên Khăm Chay – một tướng cướp trên núi Tà Lơn. Tên này võ nghệ cao cường, có luyện “gồng Trà Kha”, được chúa đảo Bouvier đỡ đầu với chính sách dùng tù Miên trị tù Việt.

    Trong cuộc so tài, Bảy Viễn đã tung một cú đá xỉa bằng năm đầu ngón chân (Kim Tiêu cước) nhanh và hiểm trúng vào nhân trung (yếu huyệt) Khăm Chay khiến hắn bể sóng mũi, giập môi, gãy răng, máu tuôn xối xả, tràn cả vào mồm. Khăm Chay lảo đảo vài bước rồi đổ gục xuống nền buồng giam. Từ đó, cọp rằn Khăm Chay lặn mất tăm. Phục ở chỗ, gã không hề dựa hơi chúa đảo người Pháp phái lính mã tà tra tấn địch nhân hay kéo bọn tù đàn em dùng số đông trả thù Bảy Viễn. Kể ra đó cũng là nghĩa khí của đấng trượng phu!

    Giang hồ Sài Gòn trước 1975
    Hình tượng giang hồ Bình Xuyên – Bảy Viễn – trong phim Dưới cờ đại nghĩa.

    Câu chuyện thứ 2 là khi thủ lĩnh Bình Xuyên – Ba Dương – đề nghị Sáu Cường ủy lạo gạo, tiền nuôi binh đánh Tây. Gã anh chị có chân to như “chân voi” (hai bàn chân Sáu Cường chiều dài hơn 3 tấc) đã dõng dạc tuyên bố: “Nếu Ba Dương chịu nổi một cước của Sáu Cường này thì muốn bao nhiêu gạo cũng được”. Ba Dương chấp nhận. Trận thư hùng diễn ra tại bến xe An Đông.

    Khi Ba Dương đến, đám thuộc hạ của Sáu Cường đồng loạt cười ồ bởi ngoại hình tay thủ lĩnh lực lượng quân đội Bình Xuyên quá “mỏng cơm”. Nhưng sau khi Sáu Cường xuất chiêu mới biết là mình đã lầm.

    Để khắc chế cú đá nặng ngàn cân của đối phương, thân hình Ba Dương luồn lách uyển chuyển như con rắn, dùng “xà tấn” lòn thấp người tránh né đồng thời dùng “hạc quyền” khẽ chạm vào hạ bộ của “thần cước” Sáu Cường. Liên tục 3 cú đá mạnh và nhanh như điện mà Sáu Cường tung ra, đối thủ đều né tránh tài tình. Cùng lúc, Ba Dương 3 lần dùng tuyệt kỹ võ hạc “mổ” nhẹ vào “của quý” Sáu Cường, dụng ý chỉ nhằm cảnh cáo.

    Biết mình đã lỡ đụng nhằm cao thủ, trùm giang hồ bến xe An Đông lập tức dừng đòn, nghiêng người cúi đầu đưa hai tay cung kính bái phục Ba Dương như một hiệp khách bại trận và tất nhiên giao kèo trước đó được hai tay anh chị thực thi chóng vánh. Không hề có chuyện Sáu Cường giở trò chơi dơ “lật kèo” ỷ nhiều đánh ít, mặc dù Ba Dương đến bến xe An Đông “phó hội” đơn thân độc mã, tay không tấc sắt.

    “Cao bồi” xuất hiện

    Sau khi chế độ Diệm – Nhu bị đảo chính và triệt hạ, giang hồ theo kiểu “108 anh hùng Lương Sơn Bạc” coi như xóa sổ. Cho đến những năm đầu 60, khi trào lưu “Làn Sóng Mới” (Le Nouvel Vague) từ phương Tây đổ bộ lên “Hòn ngọc Viễn Đông”, một số tay anh chị bắt đầu xuất hiện trở lại và chia nhau hùng cứ những khu vực manh mún ở Sài Gòn.

    Cụm từ “hippy choai choai” do báo chí Sài Gòn đặt, ám chỉ lớp người trẻ ăn mặc theo kiểu cao bồi miền viễn Tây Texas (Hoa Kỳ) cưỡi ngựa chăn bò với quần jean, áo sơmi ca rô sọc to xanh đỏ, giày ống cao gót, tóc dài phủ gáy, phóng xe máy Sachs như điên trên đường phố, miệng phì phèo thuốc lá Salem. Ban ngày, các “cao bồi” này “ngồi đồng” ở các quán cà phê nhạc ngoại quốc trên đại lộ Lê Lợi, Nguyễn Huệ.

     Giang hồ Sài Gòn trước 1975

    Trần Đại (Trần Quang đóng) đánh Bốn “lơ xe” (Tâm Phan đóng) trong phim Điệu ru nước mắt của đạo diễn Lê Hoàng Hoa.

    Tối đến, họ “đóng đô” ở các phòng trà, vũ trường giá “bèo” như Anh Vũ, Bồng Lai, Melody, Lai Yun (Lệ Uyển), Arc En Ciel (khu Tổng Đốc Phương), ngã tư Bảy Hiền, hồ bơi Chi Lăng, Victoria (Phú Nhuận)…, sẵn sàng gây sự và đánh lộn, đập phá, đâm chém chỉ để nhằm khẳng định mình là “cao bồi” chính hiệu!

    Sau cuộc chính biến lật đổ “Ngô triều” vào đầu thập niên 60, trật tự đô thị Sài Gòn trở nên hỗn độn, khó kiểm soát. Nhân cơ hội này, nhiều thành phần “cao bồi” manh nha xuất hiện, “vỗ ngực xưng tên”. Nổi trội trong giới giang hồ là những “đại ca” tên tuổi như Cà Na ở khu Tân Định (sau theo võ sư Huỳnh Tiền, đấu võ đài 8 trận toàn thắng với biệt danh Huỳnh Sơn), Bích “Pasteur”, Búp “Moderne”, Bình “thẹo”, Lộc “đen” (vua nhảy bebop), Hân “Faucauld”, Sáu “già”, Nhã “xóm chùa”…

    Quận 1 – vùng đất màu mỡ trù phú – do “tứ đại thiên vương” Lê Đại, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế chia nhau cai quản. Đám lâu la đông hàng trăm tên gồm A “chó”, Hải “sún”, Lâm “khùng” (tức Lâm “chín ngón” sau này), Lương “chột”, Hùng “đầu bò”, Việt “Parker”, Đực “đen”.

    Khu vực quận 3 có Minh “nhảy dù”, Cẩm “Mambo”, Lâm “thợ điện” (nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật bán đồ điện gia dụng), Hùng “mặt mụn” (thủ phạm đâm chết Lâm “thợ điện” ở bệnh viện Từ Dũ bằng con dao cắt bánh mì sau một vụ cãi nhau vớ vẩn vì chiếc xe đạp Martin). Xuôi về quận 5 hướng chợ Nancy rồi Đại Thế Giới (chợ Soái Kình Lâm – “đèn năm ngọn”) là lãnh địa của những trùm giang hồ người Hoa như Tín Mã Nàm (Nàm Chẩy), Sú Hùng, Hổi Phoòng Kiên, Trần Cửu Can, Ngô Tài…

    Bóng hồng sát thủ

    Trong giới giang hồ Sài Gòn thập niên 60 – 70 xuất hiện một “bóng hồng sát thủ”, đó là Lệ Hải – “người tình một năm” của ông trùm Đại “Cathay”. Lệ Hải xuất thân con nhà giàu có, gia giáo, trâm anh thế phiệt, cựu nữ sinh trường Marie Curie, thi đỗ tú tài I. Năm 17 tuổi, Lệ Hải đã thi lấy bằng lái ô tô, hằng đêm lướt đến các vũ trường trên chiếc Toyota Corolla màu đỏ cánh sen bóng lộn.

    Là một giai nhân giàu có lại “biết chữ”, Lệ Hải không thèm cặp bồ với những tay giang hồ thô kệch võ biền mà chấp nhận làm người tình của bác sĩ Nghiệp – một thầy thuốc có ngoại hình trí thức kèm máu du đãng nổi tiếng Sài Gòn bởi luôn có mặt bên cạnh Đại “Cathay” ở các phòng trà, động hút. Sau khi đã “hoa chán, nguyệt chê” Lệ Hải, gã bác sĩ bèn “sang tay” người tình cho Đại “Cathay” trong một đêm sinh nhật thác loạn tổ chức ở phòng trà Lido trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Q.5.

    “Gái giang hồ” hội ngộ “trai tứ chiếng”, vóc dáng “du đãng mang nét mặt thư sinh” của Đại “Cathay” nhanh chóng thu hút “nữ quái” đa tình. Từ sau đêm đó, Lệ Hải bỏ nhà đi “sống bụi đời” cùng Đại “Cathay” như vợ chồng. Thế nhưng, cuộc tình “sét đánh” cũng nhanh chóng vỡ tan sau một năm chăn gối mặn nồng. Lệ Hải bỏ người tình, cặp bồ với nhiều nhân vật giàu có thế lực, vừa thỏa mãn tình lại dễ moi tiền.

    Với gương mặt ưa nhìn, nét đẹp thanh tú, cao ráo, trắng trẻo, lại có học thức, Lệ Hải dễ dàng dùng “mỹ nhân kế” mồi chài những ông chủ salon lắm tiền nhiều của, các dân biểu “tai to mặt lớn” hay sĩ quan tướng lĩnh Sài Gòn “vui vẻ qua đêm”. Chẳng bao lâu, Lệ Hải đã lột xác thành một nữ chúa trong giới giang hồ sau khi nhờ Đạt “ba thau” xăm trổ hình bông hồng đỏ dưới rốn và con rắn phùng mang nơi ngực trái.

    Qua sự giới thiệu của “nhà văn chém mướn” Nguyễn Đình Thiều, nhà văn Nhã Ca đã hội ngộ Lệ Hải tại vũ trường Ritz và được “yêu nữ” đồng ý cho chắp bút về cuộc đời du đãng của mình. Tiểu thuyết Cô hippy lạc loài ấn hành đã gây xôn xao dư luận. Những gia đình khá giả có con gái đang độ tuổi trưởng thành đọc xong tiểu thuyết của Nhã Ca đều lo ngay ngáy, ăn ngủ không yên.

    Ăn theo cuốn tiểu thuyết này, năm 1973, Lidac Film giao cho đạo diễn Lê Dân thực hiện bộ phim màu 35mm màn ảnh rộng với tựa Hoa mới nở qua sự diễn xuất của Bạch Liên, Vũ Thái Bình, Mỹ Hòa, Cát Phượng, La Thoại Tân, bà Bảy Ngọc, bà Năm Sa Đéc, Đinh Xuân Hòa… Bộ phim đã dự Liên hoan thanh niên thế giới lần 8 tổ chức tại Canada năm 1974.

    Nhà thơ trẻ Văn Mạc Thảo sau một đêm “tâm sự” cùng Lệ Hải đã cảm hứng sáng tác một bài thơ, trong đó có hai câu “Ta gọi tên em là yêu nữ/ Là loài yêu mị, gái hồ ly”. Bài thơ sau đó được Ngọc Chánh (trưởng ban nhạc Shotguns) phổ nhạc với tiếng hát nam danh ca Elvis Phương: “Loài yêu nữ mang tên em…” được giới “hippy choai choai” Sài Gòn thuộc nằm lòng. Nữ văn sĩ Lệ Hằng cũng gặp Lệ Hải tìm cảm hứng sáng tác Kinh tình yêu và Bản tango cuối cùng – 2 quyển tiểu thuyết “hit” nhất trên văn đàn miền Nam năm 1973.

    Tháng 4.1975, khi quân giải phóng đánh chiếm sân bay Biên Hòa, Lệ Hải vội vã cùng chồng hờ – một ông chủ salon ô tô người Hoa giàu sụ – mua tàu vượt biển di tản qua Úc rồi sau đó định cư tại Anh. Khi gã chồng Hoa kiều bất ngờ đột tử sau một đêm ân ái, Lệ Hải sống lặng lẽ, cô độc trong tòa biệt thự xa hoa, lộng lẫy, không con cái cũng chẳng có người thân, từng ngày buồn bã gặm nhắm về những tháng ngày dữ dội của thế giới du đãng Sài Gòn trong sương mù London rét buốt.
    Trong các tiểu thuyết viết về thế giới du đãng của nhà văn Duyên Anh – Vũ Mộng Long xuất bản trước 1975, chỉ có 4 nhân vật là những nguyên mẫu có thật ngoài đời gồm Lê Văn Đại (tức Đại “Cathay”), Trần Thị Diễm Châu, Chương “còm” và Dũng “Đa Kao” còn những Hoàng “guitar”, Quyên “Tân Định”, Bồn “lừa”, Hưng “mập”, Danh “ná”, Vọng “ghẻ”, thằng Khoa, thằng Côn, thằng Vũ, con Thúy… là do nhà văn phịa ra bên bàn đèn thuốc phiện. Tương tự, nhân vật “Loan mắt nhung” trong tiểu thuyết cùng tên cũng do nhà văn Nguyễn Thụy Long hư cấu.
    Theo Dân Việt/Dòng Đời
  • Bến – thuyền Sài Gòn xưa

    Bến – thuyền Sài Gòn xưa

    Sài Gòn xưa – Người và Cảnh: Trên bến dưới thuyền

    Cầu Ba Cẳng ở Chợ Lớn
    Cầu Ba Cẳng ở Chợ Lớn, gần phía sau chợ Kim Biên nay không còn nữa. Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, nay lấp thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn Khoẻ quận 6. Cầu Ba cẳng nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập.
    Buôn bán gạo trên sông Chợ Lớn xưa
    Buôn bán gạo trên sông Chợ Lớn xưa

     

    Xe xích lô máy Sài Gòn
    Xe xích lô máy Sài Gòn
    Cầu Ba Cẳng bắc qua rạch Bãi Sậy, gần Chợ Bình Tây, và gần phía sau chợ Kim Biên (chợ Kim Biên chỉ mới có sau 1975, trước đó vị trí chợ là một công viên). Chân cầu bên phải là đường Gò Công ngày nay.
    Cầu Ba Cẳng bắc qua rạch Bãi Sậy, gần Chợ Bình Tây, và gần phía sau chợ Kim Biên (chợ Kim Biên chỉ mới có sau 1975, trước đó vị trí chợ là một công viên). Chân cầu bên phải là đường Gò Công ngày nay.
    Bến cảng Sài Gòn
    Bến cảng Sài Gòn
    Bến cảng Sài Gòn 2
    Bến cảng Sài Gòn 2
    Góc cảng Sài Gòn xưa
    Góc cảng Sài Gòn xưa
    bánh mì mới ra lò nóng hổi vừa thổi vừa an đêêêy…
    bánh mì mới ra lò nóng hổi vừa thổi vừa an đêêêy…
    Bến đò Thủ Thiêm xưa
    Bến đò Thủ Thiêm xưa
    Bến Bình Đông ngày xưa
    Bến Bình Đông ngày xưa
    Cuộc sống sông nước người Sài Gòn xưa
    Cuộc sống sông nước người Sài Gòn xưa
    Bữa cơm đạm bạc
    Bữa cơm đạm bạc
    Đời sông nước
    Đời sông nước
    Sơ chế ngao
    Sơ chế ngao
    bến Bạch Đằng
    bến Bạch Đằng
    Bến đò ở Sài Gòn những năm 1960
    Bến đò ở Sài Gòn những năm 1960
    CHỢ LỚN – KÊNH BONNARND
    CHỢ LỚN – KÊNH BONNARND
    Chợ Lớn cũ
    Chợ Lớn cũ
    Bến đò Thủ Thiêm - Bến Nhà Rồng
    Bến đò Thủ Thiêm – Bến Nhà Rồng
    BOULEVARND DE LA SOME – ĐẠI LỘ HÀM NGHI
    BOULEVARND DE LA SOME – ĐẠI LỘ HÀM NGHI

    Theo Huỳnh Minh Tú 

  • Cộng đồng người Hoa thời xưa tại Sài Gòn Chợ Lớn

    Cộng đồng người Hoa thời xưa tại Sài Gòn Chợ Lớn

    Lịch sử Trung Quốc và Việt Nam rất gắn liền nhau, sự hiện diện của người Hoa trên đất Việt đã có từ ngàn xưa, người dân Trung Quốc rất giỏi về buôn bán, họ hay sống chung đoàn tụ lại với nhau. “Chợ Lớn” là khu phố người Hoa rất lớn ở Saigon, cũng giống như là quận 13 của Paris vậy.

    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Phái đoàn Trung Quốc
    Phái đoàn Trung Quốc
    Chợ lớn thuở sơ khai
    Chợ lớn thuở sơ khai
    Thợ sửa giày
    Thợ sửa giày
    Bán hủ tiếu
    Bán hủ tiếu
    Ðám ma
    Ðám ma
    Back to the Future
    Back to the Future
    Hút thuốc phiện
    Hút thuốc phiện
    Ðang làm vịt quay
    Ðang làm vịt quay
    Ðoàn hát Quảng
    Ðoàn hát Quảng
    Nhà hát người Tàu
    Nhà hát người Tàu
    Chùa Tàu
    Chùa Tàu
    Một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Ðường Canton trong Chợ lớn
    Ðường Canton trong Chợ lớn
    Hút thuốc (phiện, thuốc lào)
    Hút thuốc (phiện, thuốc lào)
    Hút thuốc phiện
    Hút thuốc phiện
    Gia đình giàu người Hoa
    Gia đình giàu người Hoa
    Bán thuốc rong
    Bán thuốc rong
    Một nhà sư người Tàu
    Một nhà sư người Tàu
    Nam nghệ sĩ
    Nam nghệ sĩ
    Nữ nghệ sĩ
    Nữ nghệ sĩ
    Một cô gái Nûng
    Một cô gái Nûng
    Một người Hoa trung lưu
    Một người Hoa trung lưu
    Đám rước
    Đám rước
    Đám múa lân, Cholon_la_procession_du_dragon
    Đám múa lân
    Đốt pháo ở Chợ Lớn, Cholon_tir_des_petards_n49
    Đốt pháo ở Chợ Lớn
    Bên trong một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Bên trong một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Lào Kay
    Một gia đình người Hoa ở Lào Kay
    Tiệm bán thịt
    Tiệm bán thịt
    Thương mại
    Thương mại
    Thợ máy người Hoa
    Thợ máy người Hoa
    Tập tục bó chân của người Hoa
    Tập tục bó chân của người Hoa

     

     

     

  • Khung cảnh Sài Gòn cuối thế kỷ 19

    Khung cảnh Sài Gòn cuối thế kỷ 19

    Hình ảnh Việt Nam xin tổng hợp những bức ảnh xưa về Sài Gòn Gia Định ở cuối thể kỷ 19. Thời cuộc có đổi thay nhưng vẫn còn nguyên giá trị lịch sử – văn hóa.

    Dinh Norodome ( Dinh Độc Lập )

    Ngày 26/2/1962 ,Phi công Nguyễn văn Cử lái máy bay khu trục AD-6 ( Skyraider ) ném bom sập cánh phải của Dinh ( Gia dình Ông Ngô Đình Nhu có một cô con gái tử nạn trong vụ này ). Sau đó Dinh bị phá bỏ hoàn toàn để xây mới thành Dinh Độc Lập – nay là Hội Trường Thống Nhất .

    Đây là bức ảnh xưa nhất của dinh Norodom.  dinh Toàn quyền vừa mới xây dựng xong, khoảng 1875 Palais du Gouverneur Général à Saïgon, Vietnam, circa 1875.  Photo by Emile Gsell
    Đây là bức ảnh xưa nhất của dinh Norodom.
    dinh Toàn quyền vừa mới xây dựng xong, khoảng 1875
    Palais du Gouverneur Général à Saïgon, Vietnam, circa 1875.
    Photo by Emile Gsell
    Dinh Toàn quyền. dinh Norodom. Dinh Độc Lập ( sau này ) (1866)
    Dinh Toàn quyền Norodom (1866)

     Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn

     Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn The Cathedral of Saigon 1888
    Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. The Cathedral of Saigon 1888
     Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn The Cathedral of Saigon 1888
    Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. The Cathedral of Saigon 1882
    CHOLON 1888 - The Chinese district of Saigon  Chợ Lớn - rạch Bến Nghé
    CHOLON 1888 – The Chinese district of Saigon
    Chợ Lớn – rạch Bến Nghé
    Ships on the port of Saigon 1888  tàu trên sông SG
    Ships on the port of Saigon 1888
    tàu trên sông SG

     

     

    CHOLON 1888 - A bridge in the Chinese district of Saigon - Cầu Bình Tây phía trước chợ Bình Tây đầu tiên trong Cholon
    CHOLON 1888 – A bridge in the Chinese district of Saigon – Cầu Bình Tây phía trước chợ Bình Tây đầu tiên trong Cholon
    The Saigon River in Vietnam ca 1870
    The Saigon River in Vietnam ca 1870
    Một chiếc thuyền ba lá đang neo đậu trên con lạch. A stream with a sampan 1888
    Một chiếc thuyền ba lá đang neo đậu trên con lạch. A stream with a sampan 1888
    A quay with vessels moored in Saigon, Vietnam - 1893  Cột cờ Thủ Ngữ
    A quay with vessels moored in Saigon, Vietnam – 1893
    Cột cờ Thủ Ngữ
    Một tàu khách nổi tiếng của Pháp tại bến cảng. The French passenger ship S.S. Sydney of Messageries Maritimes Co. in Saigon, Vietnam - 1893
    Một tàu khách nổi tiếng của Pháp tại bến cảng. The French passenger ship S.S. Sydney of Messageries Maritimes Co. in Saigon, Vietnam – 1893
    La Sainte Enfance par Emile Gsell (ca.1866)  Từ năm 1924 tên gọi “Sainte Enfance” của tu viện này đã được đổi thành “Saint Paul”. Tu viện Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam. Hai nữ tu đầu tiên đến Saigon năm 1860, và tòa nhà được xây dựng xong vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn Trường Tộ. Hình trên của Émile Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây xong. Tòa nhà này sau đó vào cuối thế kỷ 19 được thay thế xây lại như còn lại hiện nay (tháp chuông không còn)
    La Sainte Enfance par Emile Gsell (ca.1866)
    Từ năm 1924 tên gọi “Sainte Enfance” của tu viện này đã được đổi thành “Saint Paul”.
    Tu viện Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam. Hai nữ tu đầu tiên đến Saigon năm 1860, và tòa nhà được xây dựng xong vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn Trường Tộ. Hình trên của Émile Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây xong. Tòa nhà này sau đó vào cuối thế kỷ 19 được thay thế xây lại như còn lại hiện nay (tháp chuông không còn)
    Tu viện Sainte Enfance sài gòn
    Tu viện Sainte Enfance do nhà nhiếp ảnh  tiên phong của Trung Hoa là Pun Ky ( Tân KỲ ) chụp khoảng năm 1860
    Cochinchine: Pagode Barbé, maintenant Ecole normale annamite (Environs de Saigon) - Chùa Khải Tường xưa  Chú thích trên ảnh: "Nam Kỳ: Chùa Barbé, bây giờ là trường sư phạm của người An Nam (Vùng ven Saigon).   Đây là bức ảnh duy nhất còn lưu giữ được của chùa Khải Tường xưa. Bức ảnh do Emile Gsell chụp trong khỏang từ năm 1871-1874. Những người tìm hiểu lịch sử TP Saigon thời Pháp bắt đầu đánh chiếm rất quan tâm đến ngôi chùa này, là một trong bốn ngôi chùa Pháp chiếm để lập thành "chiến tuyến các ngôi chùa" để tấn công đồn Kỳ Hòa của Nguyễn Tri Phương. Vị trí của nó ngày xưa ở khoảng Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, ngày nay không còn lại một dấu vết nào ngoài tấm ảnh này của Gsell.
    Cochinchine: Pagode Barbé, maintenant Ecole normale annamite (Environs de Saigon) – Chùa Khải Tường xưaĐây là bức ảnh duy nhất còn lưu giữ được của chùa Khải Tường xưa. Bức ảnh do Emile Gsell chụp trong khỏang từ năm 1871-1874. Những người tìm hiểu lịch sử TP Saigon thời Pháp bắt đầu đánh chiếm rất quan tâm đến ngôi chùa này, là một trong bốn ngôi chùa Pháp chiếm để lập thành “chiến tuyến các ngôi chùa” để tấn công đồn Kỳ Hòa của Nguyễn Tri Phương. Vị trí của nó ngày xưa ở khoảng Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, ngày nay không còn lại một dấu vết nào ngoài tấm ảnh này của Gsell.

     

    Tombeau de l'Evêque d'Adran (1866)  Lăng mộ Cha Cả. Photo by Emile Gsell
    Tombeau de l’Evêque d’Adran (1866)
    Lăng mộ Cha Cả. Photo by Emile Gsell
    Cảng Nhà Rồng - Saigon 1866 - Vue de l'Etablissement des Messageries Impériales  Photo by Emile Gsell
    Cảng Nhà Rồng – Saigon 1866 – Vue de l’Etablissement des Messageries Impériales
    Photo by Emile Gsell
    Vue de Saïgon en 1866 - cột cờ Thủ ngữ  Photo by Emile Gsell. Cảng Saigon với cột cờ Thủ Ngữ, lúc này chưa có ngôi nhà lớn của ông Vương Thái (sau này xây ở cạnh tòa nhà giữa hình). Bên trái là rạch Bến Nghé.
    Vue de Saïgon en 1866 – cột cờ Thủ ngữ
    Cảng Saigon với cột cờ Thủ Ngữ, lúc này chưa có ngôi nhà lớn của ông Vương Thái (sau này xây ở cạnh tòa nhà giữa hình). Bên trái là rạch Bến Nghé.

    Cùng góc chụp, khi đã có khách sạn của ông Wang Tai (các hình dưới chụp năm 1867):

    Saigon, Cochin China - Photograph by John Thomson, 1867. - Bức ảnh rất lớn cho thấy rõ nhiều chi tiết  Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Saigon, Cochin China – Photograph by John Thomson, 1867. – Bức ảnh rất lớn cho thấy rõ nhiều chi tiết
    Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Cảng Sài Gòn xưa
    Cảng Sài Gòn xưa

     

     ảnh toàn cảnh Sài Gòn xưa. Hình chụp khi chưa có Maison Wang-tai (tòa nhà sau này là trụ sở Quan Thuế)

    ảnh toàn cảnh Sài Gòn xưa. Hình chụp khi chưa có Maison Wang-tai (tòa nhà sau này là trụ sở Quan Thuế)
    Bản đồ Saigon 1867, cùng khoảng thời gian với những bức hình của Emile Gsell (1866).. Plan de la ville de Saigon. Cochinchine 1867 Publisher: Imprimerie impériale. Dressée par le service des Ponts et Chaussées, octobre 1867
    Bản đồ Saigon 1867, cùng khoảng thời gian với những bức hình của Emile Gsell (1866).. Plan de la ville de Saigon. Cochinchine 1867 Publisher: Imprimerie impériale. Dressée par le service des Ponts et Chaussées, octobre 1867

     

    Chợ Lớn Sài Gòn – Thành Phố người Hoa

    Saïgon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    vị trí cây cầu này nay ở trên ĐL Đông Tây. Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa 3
    Vị trí cây cầu này nay ở trên ĐL Đông Tây. Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    1866 Chinese village panorama - Toàn cảnh đoạn kinh Tàu Hủ chảy qua khu vực phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn  Hình ghép 5 tấm ảnh của Emile Gsell chụp cảnh kênh Tàu Hủ đoạn chảy qua phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn năm 1866, cách nay gần 150 năm. Con kinh bên dưới cây cầu ở giữa ảnh ngày nay đã lấp đi thành đường Vạn Kiếp. Nơi cây cầu trong ảnh ngày nay là đầu cầu Chà Và qua kinh Tàu Hủ. Photo by Emile Gsell
    1866 Chinese village panorama – Toàn cảnh đoạn kinh Tàu Hủ chảy qua khu vực phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn
    Hình ghép 5 tấm ảnh của Emile Gsell chụp cảnh kênh Tàu Hủ đoạn chảy qua phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn năm 1866, cách nay gần 150 năm. Con kinh bên dưới cây cầu ở giữa ảnh ngày nay đã lấp đi thành đường Vạn Kiếp. Nơi cây cầu trong ảnh ngày nay là đầu cầu Chà Và qua kinh Tàu Hủ. Photo by Emile Gsell
    Cảnh Thành phố của người Hoa (Chợ Lớn). Hình do nhà nhiếp ảnh Pháp Emile Gsell chụp năm 1866.
    Cảnh Thành phố của người Hoa (Chợ Lớn). Hình do nhà nhiếp ảnh Pháp Emile Gsell chụp năm 1866.
    Chợ Sài Gòn xưa. Chợ Lớn. SAIGON - TRAMWAY de la ROUTE BASSE DE CHOLON ET MARCHE DE SAIGON
    Chợ Sài Gòn xưa. Chợ Lớn. SAIGON – TRAMWAY de la ROUTE BASSE DE CHOLON ET MARCHE DE SAIGON
    Saigon 1866 - Photo by John Thomson (BIG PHOTO) - Dãy nhà trên Bến Bạch Đằng ngày nay, phía bên trái là bờ sông Saigon Chưa nhận ra đường nào, nhưng có thể là đường Nguyễn Huệ sau này. Vào thời gian này toàn bộ thành phố đều chưa có điện nên phải thắp sáng buổi tối bằng đèn dầu hỏa. Ngày nay chúng ta khó thể hình dung ra cảnh tối tăm đó như thế nào...
    Saigon 1866 – Photo by John Thomson (BIG PHOTO) – Dãy nhà trên Bến Bạch Đằng ngày nay, phía bên trái là bờ sông Saigon
    Chưa nhận ra đường nào, nhưng có thể là đường Nguyễn Huệ sau này. Vào thời gian này toàn bộ thành phố đều chưa có điện nên phải thắp sáng buổi tối bằng đèn dầu hỏa. Ngày nay chúng ta khó thể hình dung ra cảnh tối tăm đó như thế nào…
    Saïgon Circa 1890 - Bức ảnh góc phố Chợ cũ, Rue d'Adran, cách nay hơn 120 năm  Góc phố Blvd de la Somme và Rue d'Adran. Nay là góc Hàm Nghi - Hồ Tùng Mậu. Tòa nhà giữa ảnh nay là tiệm Như Lan.
    Saïgon Circa 1890 – Bức ảnh góc phố Chợ cũ, Rue d’Adran, cách nay hơn 120 năm
    Góc phố Blvd de la Somme và Rue d’Adran. Nay là góc Hàm Nghi – Hồ Tùng Mậu. Tòa nhà giữa ảnh nay là tiệm Như Lan.
    Saigon, Cochin China -  Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Saigon, Cochin China –
    Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Saigon - Cochin China -1867
    Saigon – Cochin China -1867

     

    Cochin China là gì?

    CochinChina hoặc CochinChine, là tên mà người Phương Tây gọi Nam Kỳ ( lúc đó là 20 tỉnh ). Xem nguồn gốc tên gọi Cochin China.

    Lăng Cha Cả

    Cha Cả tức Giám mục Bá Đa Lộc (Mgr. Pigneau de Béhaine). Mộ ngài trên vùng đất trường ngoại ngữ Dương Minh bây giờ (?)

    SAIGON 1867 - Đường đến Lăng Cha cả với hai hàng cây xoài
    SAIGON 1867 – Đường đến Lăng Cha cả với hai hàng cây xoài

    SAIGON 1867 - Lăng Cha Cả  Cây lớn tro

    SAIGON 1867 - Lăng Cha Cả  Cây lớn trong hình là cây xoài, có vẻ cũng phải được mấy chục năm rồi...
    SAIGON 1867 – Lăng Cha Cả
    Cây lớn trong hình là cây xoài, có vẻ cũng phải được mấy chục năm rồi…
    SAIGON 1867 - Mộ Cha Cả
    SAIGON 1867 – Mộ Cha Cả

     

     

     

  • Tóm tắt sơ lược sự hình thành “Saigon-Gia Định”

    Cho đến trước thế kỷ 16, Sài Gòn – Gia Định vẫn là miền đất hoang, vô chủ, địa bàn của vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.. Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa … Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quạn trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ ba cơ quan chính quyền này.Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một nhóm người Hoa “phản Thanh phục Minh” tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý vào miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình.. Vùng Nam Bộ được sát nhập vào cương vực Việt Nam.

    Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Các công trình kênh đào Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế… được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp, Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel, Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. “Gia Định thành” khi đó được đổi thành “Gia Định kinh”. Tới năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, miền Nam được chia thành 5 trấn. Sáu năm sau, 1808, “Gia Định trấn” lại được đổi thành “Gia Định thành”. Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế..

    Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, người Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Theo thiết kế ban đầu, Sài Gòn bao gồm cả khu vực Chợ Lớn. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, chính quyền Pháp quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được thực hiện. Sau hai năm xây dựng và cải tạo, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn thay đổi, Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám độc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục… Lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên.

    Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn, khi quân Pháp rút khỏi miền Nam năm 1954 thể theo hiệp định Genève, đại tướng Paul Ely trao dinh Norodom lại cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm . Đúng một tháng sau đó, dinh Norodom được chính thức đổi tên thành Dinh Độc Lập.

    Nguồn : http://belleindochine.free.fr/GiaDinh.htm