Tag: nghề nghiệp Việt Nam xưa

  • Một ngày của người Việt xưa diễn ra như thế nào?

    Một ngày của người Việt xưa diễn ra như thế nào?

    Ngày thường của nhà Vua

    Nhà vua thường thức giấc vào cuối giờ dần, khoảng bốn rưỡi sáng, để còn kịp chỉnh trang buổi đăng triều, nếu không phải lên triều, ngài có thể dậy muộn hơn một canh giờ.

    Một thái giám bưng cho ngài một chén trà thuốc súc miệng, sau khi nhấp trước một ngụm, mới đến hoàng đế, rồi ngài nhổ ngụm nước vào ống nhổ bạc miệng rộng. Ngài vén quần ngồi vào chiêc ghế vệ sinh, dưới có đặt một chậu sành. Hoàng cung phong kiến từ thời Hán có một ông vua bị ám sát ngay trong nhà xí, nên không bao giờ được xây nữa. Vua, hoàng hậu và cung nữ đều đại tiểu tiện bằng chậu. Riêng chậu của vua được ngự y giữ lại còn nghiên cứu sức khỏe của ngài ngự qua phân. Xong xuôi, thái giám dùng khăn mềm lau sạch, rồi thấm một chút mật ong vào hậu môn của ngài. Vua khoan thai đi một bài quyền dưỡng sinh trên phương đình của ngự uyển, cũng tại đó, thái hậu đã chuẩn bị bữa sáng đạm bạc, gồm một ấm trà sâm, một đĩa bánh nhỏ bằng bột gạo trứng và mật ong do đích tay bà làm, một bát miến gà. Tất cả món ăn đều được thái hậu kiểm tra và cho người nếm thử. Hai tên thị nữ sẽ lau người cho ngài bằng nước ấm, thay quần áo trong, rồi khoác ra ngoài áo trong một bộ hoàng bào mầu trắng, thêu rồng vàng, nếu ngài không lên triều. Vua được chải tóc vấn thành búi giữa đỉnh rồi lồng vào đó một mũ miện vàng khít với nhục kháo (búi tóc), xỏ giầy đen bằng nhung.

    Ngài đến ngự thư phòng bắt đầu duyệt tấu sớ. Trên án thư, một dàn bút lông các cỡ đã được rửa sạch sẽ, một nghiên mực đen đã được mài đầy và sánh, một nghiên son thắm cũng đầy như vậy, vài ba cái chặn giấy bằng đá ngọc Tuyền châu, một cuốn sổ giấy vàng ghi lịch trình công việc, và hai chồng công văn từ khắp nơi gửi đến, cái bằng thẻ tre kết sách, cái là sách gấp bìa lụa, cái viết thành quyển trên lụa và giấy cuộn tròn. Sau hai canh giờ phê bút, ngài ngự thay áo và thưởng một ấm trà sen dưỡng tâm.

    Quá ngọ chút đỉnh, ngài ra phòng ngoài dùng bữa trưa với ba mươi món, ngài dừng lại đó mươi phút, không đụng tay vào món nào, rồi ban hết cho quần thần thị vệ, rồi lui về phòng riêng dùng một bữa trưa khác lại do đích thân thái hậu, đôi khi chỉ là niêu cơm nhỏ, niêu cá kho tộ, và chút rau luộc. Ngự y sẽ xoa nhẹ lưng cho ngài, dâng một xuyến trà bát bảo, ngài ngủ trưa chừng nửa canh giờ. Hai tên cung nữ quỳ gần đầu long sàng, hai tên khác dùng quạt lông phẩy nhẹ dưới chân, hai tên nữa đứng xa hơn cũng quạt nhẹ vào tạo một luồng khí mát, bốn tên thị vệ tay không, mình trần lực lưỡng đứng bốn góc phòng. Trên long sàng, ngài gối trên một gối gỗ sơn son cổ hơi cao, dưới là đệm gấm, bụng phủ chăn lụa mềm, xung quanh buông màn the trắng ngà dệt lồng cảnh Thần kinh thập nhị cảnh (Mười hai phong cảnh đẹp đất đế đô).

    Thức giấc trưa, ngài dùng một bát yến hấp đường phèn, xuống thư phòng viết vài bức thư pháp, điểm nhỡn cho một bức họa được vẽ đã nhiều hôm, rồi gặp gỡ vài quan lục bộ đại thần, chiều muộn ngài luyện Thái cực kiếm cùng võ sư, tắm rửa, rồi ra hồ Tịnh tâm, ngắm hoa sen.
    Sau bữa tối, ngài thay quần áo, duyệt công văn tới cuối giờ hợi. Bốn tên cung nữ khỏa thân nằm trước trong chăn để hơi ấm đầy long sàng. Ngài cùng với một ái phi mới tuyển từ thôn quê tuổi trăng tròn long vân khánh hội.

    Vua Khải Định
    Vua Khải Định

    Ngày thường của Thầy đồ

    Thầy đồ thức dậy muộn, khi mặt trời đã chiếu vào hiên nhà. Ngài vạch quần lá tọa, tồ một bãi vào bụi cây vườn sau, rồi ngâm mấy câu trong Kinh Thi : Quan quan thư cưu. Súc miệng bằng nước chè, lấy vỏ cau khô đánh răng, vục mặt vào chậu nước sành đặt trên chạc cây, ngài vuốt tóc mai vắt qua tai (gọi tóc mai gọng kính) búi lại búi tóc, ngài nghiêm trang đánh một bát xôi với vừng, ngồi vào án thư nhỏ đặt trên sập, xem qua mấy quyển Tứ thư, Ngũ kinh, chuẩn bị cho kỳ lều chõng tới.
    Đàn trẻ mươi đứa từ vài làng đã ríu rít ngoài hiên. Chúng xộc vào nhà, đứa đun nước, đứa rửa ấm chén pha trà, đứa bê nghiên đi mài mực, đứa trải chiếu. Thầy đồ bận áo dài đen ra ngoài áo cánh, đội lên đầu khăn xếp, bắt đầu ê a đọc thi thư cho lũ trẻ bò lom khom dưới chiếu viết ám tả. Sau bữa trưa đạm bạc, ngài ngủ dài trên võng, rụi mắt sang chiều, ngài thong thả sang chùa đàm đạo với sư cụ, hoặc ngắm hoa, hoặc thũng thẵng đến chơi một sinh đồ làng bên, cùng nhau nói chuyện thế sự và ngâm thơ.
    Tối đến mẹ thầy đồ đã sắp sẵn lưng cút rượu, đĩa lòng lợn, đĩa lạc rang đặt trên chõng tre thấp ngoài sân, sau đó ngài chong đèn mài mực chép vài đoạn trong kinh sách. Chiếc đèn dầu lạc cứ chập chờn, thỉnh thoảng lại phải khêu bấc, ngài thắp thêm cây nến cho sáng, cháy hết cây nến thì đi ngủ.

    Ngày thường của anh nông dân

    Khi tiếng chuông chùa điểm lúc cuối giờ dần, chàng nông dân thức giấc rửa mặt qua loa bằng chiếc gáo dừa, quét vội cái sân bằng chổi sể, rồi đánh ba bát cơm với rau dền và muối rang trên mâm chõng tre nhỏ đặt góc sân. Năm rưỡi trời còn mờ sương, chàng dắt trâu, vai đeo cầy ra đồng, giữa giờ thìn, khi nắng đã chói chang, thửa ruộng cũng đã cầy xong, hít một hơi thuốc lào dài, bèn trở về nhà, không quên cắp theo sọt phân trâu ỉa vãi, và ba con ếch bắt được bên bờ ruộng. Cởi bộ quần áo đi làm, treo lên con sào đầu cối giã gạo sườn nhà, chàng mặc bộ cánh nâu chưa sờn, tuy có vá vài mụn.
    Bữa cơm trưa độn sắn, nhưng lại có đĩa ếch xào măng. Chàng ngủ một mạch đến ba giờ chiều, rồi vác cuốc ra bãi xới mầu, chiều tối tranh thủ mò cua bãi, nhẩy xuống sông bơi, rồi quay về rào lại mảnh vườn đến tối mịt. Cả nhà chong ngọn đèn dầu tí xíu, ăn cơm ngoài sân, một ấm nước vối, một rổ khoai. Cô vợ còn giã gạo và giặt quần áo, khi cô cùng chồng chùi chân vào cái chổi lúa, đập mấy cái, leo lên giường và quấn chặt vào nhau một hồi, quay ra thủ thỉ câu chuyện tiếu lâm Tay ải tay ai, rồi ngủ say bí tỉ.

    Kết quả hình ảnh cho https://hinhanhvietnam.com nghề
    Ảnh thiếu nữ thời Pháp

    Ngày thường của thợ mộc

    Cha con ông phó mộc đến nhà chủ ở làng bên từ tối hôm qua. Gia chủ muốn đóng một rương thờ. Ngủ trên sập và đắp chiếu, hai người dậy sớm, rửa mặt mũi qua loa, rồi đánh một nồi cơm to với rau luộc, cá kho giềng. Trà lá hút thuốc lào, đàm đạo với chủ nhà chừng nửa canh giờ, họ giở hòm đồ nghề gồm nhiều tràng, đục, búa, khoan, bào, thước, mực, còn cưa và rìu cầm theo tay. Gỗ đã được pha sẵn, giờ thì họ chỉ việc chế tinh.
    Thoạt tiên đo gian giữa, nơi sẽ đặt rương thờ, sau tính mực thước sao cho số đo toàn rơi vào những cung tốt phát về phúc đức và sinh nam tử. Trước tiên họ dựng khung, sau đó sẽ quây ván, trổ và chạm khắc hoa văn, kết thúc là sơn thếp…công việc còn phải kéo dài đến cuối năm, ngày đầu mới tính toán và dựng việc đại khái. Tuy nhiên đầu năm sau họ phải tiến triều, vào bộ lễ sửa sang một số đồ thờ tự trong Thái Miếu.
    Mặt trời đã đứng bóng, hai cha con thợ mộc, nhẩn nha uống tuần trà, rửa lại điếu bát, đợi ông chủ về uống rượu. Bữa cơm trưa đầu tiên có cả tiết canh vịt và vò rượu đầy. Cả ba sau đó lăn ra phản gỗ gáy khò khò. Giờ mùi họ tỉnh giấc, xúm lại đánh vài ván cờ trêu chọc nhau om xòm, rồi lại bắt tay vào công việc. Buổi tối lại cơm no rượu say, cậu con trai chạy vào làng làm quen với cô hàng xóm, ông bố cùng gia chủ đánh tổ tôm cho tới giờ hợi. Cả đời một người thợ mộc giỏi lắm là dựng được ba chục bộ bàn thờ, nhưng bộ nào cũng đáng là tác phẩm.

    nghe moc xua
    Nghề mộc

    Ngày thường của lái buôn

    Chàng lái buôn chít lại khăn đầu rìu, xốc hầu bao có túi tiền rủng rẻng, bao khăn khoác vai đựng quần áo, bước khỏi quán phở, rồi ra bến thuyền Sơn Tây.
    Trên thuyền những người dân Mường đã chất vài bao hương liệu, thảo dược, qua Hương Canh, lái buôn sẽ nhập thêm ít gốm sành, rồi xuôi Thăng Long và Phố Hiến. Đám dân Đểu Cáng đã về hết (Chỉ người gánh thuê, Đểu là một người gánh hai thùng hai bên, Cáng là hai người gánh chung một đòn, thúng ở giữa). Từ Sơn Tây xuống Kẻ Chợ chừng năm sáu mươi cây, nhưng theo đường sông Hồng phải bẩy tám mươi cây, một ngày đò mới tới.
    Quá trưa thuyền dừng quãng Phúc Yên, cập bến nghỉ ăn và mua đồ gốm, chiều đò xuôi tiếp bến Chương Dương, khách và chủ thuyền cởi dải rút quần lá tọa, vạch chim đái tồ tồ xuống mặt sông, xốc lại áo quần rồi chuyển hương liệu lên bờ.
    Ở lại Thăng Long chừng ba hôm, chàng lái buôn nhập thêm ít lụa Hà Đông, đi chơi cô đầu và nghe ca trù, chàng trọ một người quen ở phố Thuốc Bắc. Thuyền lại đi tiếp xuống Bát Tràng, chàng mua vài chục lô bát chiết yêu, lục bình cỡ lớn, rồi đi phố Hiến giao hàng.
    Hàng chục ngày lênh đênh trên sông, gặp bến thì lên bờ ăn nghỉ, còn không thổi nấu trên thuyền, nếu đi quá lâu, chủ thuyền cũng đành đồng ý cho gã lái buôn cắp theo một cô đào quá lứa cho vui chuyện. Tắm rửa thông thường dùng nước sông, trừ khi khan hiếm còn không chủ thuyền thường tích nước mưa nấu ăn và pha trà. Đêm ngồi đầu thuyền ngắm trăng, thưởng trà cũng thật là thanh cảnh.

    Xem thêm các nghề ngày xưa: https://hinhanhvietnam.com/tag/nghe-nghiep-viet-nam-xua/

    Nguồn: Sách Văn minh vật chất của người Việt – Phan Cẩm Thượng.

  • Những nghề mưu sinh độc – lạ, chỉ có ở Việt Nam!

    Thực ra, ở Việt Nam, còn hàng chục ” nghề” không tên gọi, không “truyền thống” mà chúng tôi không thể tổng hợp đầy đủ. Những “công

    Nghề săn gián đêm

    Con gián – vốn là loài côn trùng hôi hám, ai thấy cũng tránh xa – lại đang là nguồn thu nhập chủ yếu của một số hộ gia đình tại các thành phố lớn như TP.HCM và Hà Nội. Sau khi bắt xong, họ bán gián cho những “cần thủ”, làm mồi câu cá chim, cá tra, cá bông lau,…

    Những nghề mưu sinh độc - lạ, chỉ có ở Việt Nam!

    Dụng cụ bắt gián của vợ chồng ông Khanh

    Đặc biệt, có những người đã dành gần nửa đời người bắt gián mỗi đêm để mưu sinh như vợ chồng ông Khanh (ngụ ở quận 11, TP.HCM). Từ lời khuyên một người quen bán lưỡi câu, vợ chồng ông Khanh bắt đầu nghĩ đến chuyện bắt gián kiếm tiền, một nghề với số vốn gần như bằng không. Tuy nhiên, thu nhập từ nghề này cũng khá bấp bênh.

    Nghề ngồi cho muỗi đốt

    Đó là công việc của các tình nguyện viên tại phòng thí nghiệm của Khoa Côn trùng và Động vật y học ở Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương. Mỗi tình nguyện viên phụ trách cho hai lồng muỗi ăn vào hai tay hoặc hai chân.

    Những nghề mưu sinh độc - lạ, chỉ có ở Việt Nam!

    Tình nguyện viên ngồi cho muỗi đốt.

    Dự án nhằm đánh giá khả năng muỗi Aedes Aegypti (muỗi vằn) mang vi khuẩn Wolbachia (ít có khả năng lây truyền bệnh sốt xuất huyết) thay thế quần thể muỗi vằn tự nhiên (lây truyền bệnh sốt xuất huyết) trên đảo Trí Nguyên (Khánh Hòa).

    Nghề bồng heo thuê

    Chợ heo (lợn) Bà Rén (xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam) được xem là khu chợ buôn bán heo lớn nhất Việt Nam. Ở đây, có những phụ nữ làm công việc “độc nhất vô nhị”, đó là bồng heo thuê. Mỗi lần bồng một con heo, họ được trả 500-1.000 đồng tiền công.

    Thức đêm bắt gián đêm, hiến thân muỗi đốt kiếm tiền triệu

    Những phụ nữ làm công việc bồng heo thuê.

    Đây là nghề đặc biệt, không đòi hỏi sự khéo léo nhưng lại cần tính thận trọng, chịu khó vì suốt ngày phải tiếp xúc với heo.

    Lúc nghề bồng heo thuê chưa ra đời, mỗi lần cân heo giống là một lần khó khăn vì nhốt heo vào rọ hay trói để cân sẽ làm heo bị trầy xước, mất giá. Đồng thời, bán xong mà còn khiêng heo cho khách thì rất mất thời gian. Vì thế, cái nghề bồng heo thuê tại đây đã dần hình thành và phổ biến rộng rãi.

    Bán nước biển giữa Sài Gòn

    Hơn 30 năm qua, người phụ nữ được mọi người gọi bằng cái tên thân mật là dì Đẹp (66 tuổi, TP.HCM) đã mưu sinh với nghề buôn bán… nước biển để bảo quản hải sản.

    Thức đêm bắt gián đêm, hiến thân muỗi đốt kiếm tiền triệu

    Đại lý bán nước biển của dì Đẹp.

    Nói về cái nghề có một không hai này, dì Đẹp cũng không ngờ rằng mình lại theo đuổi nó đến tận bây giờ. Chồng dì là người con của biển, nên đánh bắt cá là công việc chính để mưu sinh. Thời điểm đó dì cùng chồng đánh bắt cá đem lên Sài Gòn bán, đồng thời có mang theo ít nước biển để trữ cho hải sản được tươi sống, dễ bán hơn. Thấy thế, nhiều khách hàng đã mua nước biển về bảo quản tôm, cua, cá,.. để bán lâu hơn. Về sau, phong trào mua nước biển để bảo quản hải sản càng nở rộ hơn nên dì cũng bán luôn cho đến bây giờ.

    Buôn lá tre kiếm tiền

    Tưởng rằng không có tác dụng gì ngoài việc để đốt, nhưng những chiếc lá tre đã giúp nhiều gia đình ở Mỹ Đức (Hà Nội) và Đoan Hùng (Phú Thọ) kiếm hàng chục triệu, thậm chí là tiền tỷ mỗi năm.

    Những nghề mưu sinh độc - lạ, chỉ có ở Việt Nam!

    Gia đình bà Triệu kiếm tiền tỷ mỗi năm nhờ lá tre.

    Gia đình bà Đặng Thị Triệu, một hộ nghèo ở xã An Phú, Mỹ Đức, Hà Nội đã có doanh thu lên đến hàng tỷ đồng từ việc buôn bán loại lá này.

    Theo bà Triệu, lá tre sinh trưởng, phát triển tốt nên chẳng mấy khi thiếu hàng. Hiện giá thu mua lá tre khô là 30.000 đồng/kg; lá tươi là 7.000 đồng/kg. Trung bình mỗi vụ bà Triệu xuất đi 100-200 tấn lá tre. Ngoài xuất sang Đài Loan, lá tre còn thu hút một số đầu mối ở Nhật Bản, thu mua lá tre qua chế biến công nghệ cao để gói bánh.

    Nghề săn kiến nhọt độc

    Mưu sinh bằng nghề săn kiến nhọt độc thoạt nghe đã thấy rất lạ nhưng ít ai biết đây là một trong những nghề đem lại tiền triệu mỗi ngày cho một số người dân ở Định Quán, Đồng Nai. Kiến nhọt độc là loại kiến có khả năng săn bắt bọ cạp rất tốt, vì thế người dân bắt loại kiến này về để bán kiếm tiền.

    Những nghề mưu sinh độc - lạ, chỉ có ở Việt Nam!

    Người bắt kiến nhọt này chỉ cần dùng bông cỏ mềm làm cần câu.

    Kiến nhọt sống ở những hang sâu trong các khu rừng đất đỏ, rẫy cao su,… nên việc săn bắt phải khéo léo. Mỗi kg kiến nhọt có giá từ 130.000 đến 160.000 đồng. Mỗi ngày, mỗi người có thể bắt trung bình 5kg kiến. Vào mùa mưa, côn trùng sinh nở nhiều nên có ngày đạt 9,7 kg. Mỗi tháng, một cặp vợ chồng có thể thu nhập từ nghề này từ 15-30 triệu đồng.

    Lấy “nước thiêng”

    Lấy “nước thiêng” không còn là một công việc bình thường nữa mà được coi là “nghề vip” của người dân Phú Thọ thời gian gần đây.

    Những nghề mưu sinh độc - lạ, chỉ có ở Việt Nam!

    Theo lời truyền tai của người dân quanh khu vực này, nguồn nước tại ngã ba sông Lô – Đà – Hồng tại Phú Thọ rất “thiêng” và không phải ai cũng có thể lấy được nước này. Người đó phải có tâm trong sáng, không vụ lợi,…

    Vì vậy, người lấy “nước thiêng” có thể thu về bạc triệu mỗi ngày vì số tiền khách trả cho “nước thiêng” tùy thuộc vào tâm linh mỗi người, không có giá cả cụ thể.

    Nghề bóc dây điện

    Nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết có một bộ phận người Việt Nam sống nhờ công việc “xẻ thịt” dây điện. Bởi những khi có đợt thay dây điện, viễn thông, từng bao tải lớn được những người dân ve chai ở Sài Gòn mua hoặc nhặt về chất đầy nhà, bên đường để “mổ” dần.

    Thức đêm bắt gián đêm, hiến thân muỗi đốt kiếm tiền triệu

    Một số người sống nhờ công việc “xẻ thịt” dây điện.

    Những người làm việc này chủ yếu là phụ nữ. Mất gần tuần, một người mới kiếm được khoảng 100kg dây đồng.

    Hạnh Nguyên (tổng hợp)

  • Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900
    Những hình ảnh dưới đây được giới thiệu trong một ấn phẩm có tiêu đề “Bắc Bộ 1900” (Le Tonkin eu 1900) được xuất bản nhân triển lãm thế giới tại Paris, Pháp vào năm 1900.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Người cửu vạn đẩy xe cút kít chở gạo.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Xe kéo tay là phương tiện kiếm cơm của rất nhiều người dân nghèo thời thuộc địa.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Một quầy hàng bán đồ gốm.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Nghề lấy ráy tai dạo.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Cậu bé bán khoai.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Chở lợn bằng xe cút kít.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Cụ ông bán chiếu cói.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Sản xuất và bày bán dép ngay tại chỗ.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Sản xuất đồ gia dụng bằng tre.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Nghề làm ô lọng.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Những người cửu vạn lúc rỗi việc.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Nghề khảm trai mỹ nghệ.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Một nghệ nhân thêu cờ phướn.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Những tấm da đang được căng tại một xưởng thuộc da trâu bò.

    Theo KIẾN THỨC / BELLE INDOCHINE

  • Nghề giúp việc xưa và tên gọi con Sen, anh Xe, U già…

    Nghề giúp việc xưa và tên gọi con Sen, anh Xe, U già…

    Năm 1401, trong cải cách chế độ của Hồ Quý Ly có một quy định đó là hạn chế số lượng gia nô trong nhà quan. Gia nô là kẻ làm các công việc từ đồng áng đến việc nhà và gần như không có quyền tự do. Khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, đô thị này xuất hiện nghề giúp việc cho các gia đình người Pháp và cả những gia đình người Việt ở tầng lớp trung lưu, từ đó xuất hiện những cái tên “anh xe”, “con sen”, “u già”…

    Có xe kéo tay thì phải có người kéo và cái tên “anh xe” có từ khi phương tiện này xuất hiện ở Hà Nội. Cuốn “Ở Bắc Kỳ, ghi chép và kỷ niệm” (Au Tonkin notes et souvenirs – xuất bản tại Hà Nội năm 1925) của Công sứ Bonnal (1883 – 1885) kể rằng, trong một chuyến đi Nhật, ông này đem về hai chiếc xe tay hiệu Djinnrickshas (pousse pousse – xe tay kéo), một chiếc để dùng còn chiếc kia tặng Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Hữu Độ. Sau đó, thuộc cấp của ông sai người làm giống như thế để họ dùng. Những người Châu Âu ở Hà Nội cũng bắt chước làm theo để dùng riêng. Đó là chiếc xe hòm có sàn để ngồi cao hơn trục bánh xe, bánh xe bằng sắt, lúc đó đường sá Hà Nội vẫn lổn nhổn gạch đá, duy nhất chỉ có phố Paul Berts (Tràng Tiền ngày nay) trải đá dăm nên rất dễ lật. Sự xuất hiện của xe tay dẫn đến một sự kiện quan trọng, Công sứ Bonnal đã cho phá bỏ các cổng cùng những cánh cửa vuông nặng trịch mà người Hoa dựng lên ở các phố họ sinh sống nhằm ngăn cách với khu người Việt để xe tay có thể ra vào dễ dàng mà không sợ tai nạn. Nhu cầu dùng xe tay tăng cao làm viên quan thuế đã nghỉ hưu là Leneven nhập xe từ Nhật và Hồng Công về cho thuê và trở nên giàu có. Năm 1890, Công ty Verneuil et Gravereand ở phố Rialan (nay là Phan Chu Trinh) đã sản xuất cả xe bánh sắt và xe bánh cao su, loại bánh sắt được bán về các tỉnh lân cận.
    Nghề giúp việc xưa
    Phu kéo xe tay ở Hà Nội đầu thế kỷ XIX.
    Việc mở mang các tuyến đường giao thông được chính quyền thành phố làm khá nhanh, tính đến ngày 1-1-1902, Hà Nội có 52km đường, trong đó hơn 10km đã rải đá và đây là yếu tố làm tăng nhanh chóng số lượng xe kéo. Theo văn bản thông qua quyết toán thuế do Công sứ Baille ký ngày 10-1-1902, số tiền thuế xe tay ở Hà Nội thu được năm 1897 là 26.530 đồng, năm 1898 là 32.165 đồng, năm 1899 là 40.450 đồng và năm 1901 là 43.370 đồng. Trước đó ngày 15-3-1892, Trú sứ Chavassieeux ký mức thuế một năm cho một chiếc xe tay là 60 đồng, như vậy năm 1897 có 442 xe, đến năm 1901, Hà Nội có tới 728 chiếc và như thế cũng có từng ấy người phu xe.Còn con sen có lẽ là phiên âm từ jeune servante trong tiếng Pháp nghĩa là người hầu trẻ, người giúp việc. Cũng như anh xe, con sen có từ cuối thế kỷ XIX, phần lớn trong số đó xuất thân từ nông thôn, ra thành phố tìm việc nhưng vì không có nghề nên họ chỉ có thể làm các công việc giản đơn trong đó có giúp việc gia đình. Sau khi quân Cờ Đen bị giải giáp phải rời khỏi Hà Nội, rồi Hà Nội (thời kỳ này rất hẹp, phía nam giới hạn đến phố Tràng Thi, phía tây chỉ đến đầu Thụy Khuê hiện nay và phía bắc và đông là đê sông Hồng) trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, thì nhiều công chức, sĩ quan Pháp đưa vợ con đến Hà Nội sinh sống. Vì chưa quen ở xứ thuộc địa nên họ cần có người giúp việc như đi chợ, khâu vá, bồi bếp… để cuộc sống của họ thuận tiện hơn; trong khi đó, dân ngoại ô, dân các tỉnh không có ruộng lại cần việc làm và thế là cung cầu gặp nhau, dẫn đến nghề giúp việc xuất hiện. Thế nhưng nhiều gia đình người Pháp vẫn chưa tin tưởng vào người mình sẽ thuê nên họ đã nhờ các cha cố ở Nhà thờ Lớn giới thiệu. Tuy nhiên ngôn ngữ vẫn là rào cản lớn vì thế cố Ân (tức cha cố Dronét) dùng ngôi trường 2 tầng ở phố Nhà Chung mở lớp dạy tiếng Pháp miễn phí cho họ.

    Thương mại phát triển, nhiều người Việt trở nên giàu có và họ cũng có nhu cầu thuê người giúp việc, thế nên đầu thế kỷ XX, số người giúp việc tăng lên đáng kể, nhiều gia đình mua xe tay và nuôi anh xe khỏe mạnh trong nhà để đưa ông chủ, bà chủ đi chơi, công việc, đưa con cái họ đi học… Cũng như con sen, chị khâu, u già… họ ở dãy nhà ngang của gia chủ và được trả lương theo tháng. Vào cuối những năm 1920, nhu cầu tìm việc ngoài thành phố ngày càng tăng vì Hà Nội được mở rộng về phía nam và phía tây nên đã xuất hiện những phố đưa người và một trong những phố đó là phố Mới (nay là Hàng Chiếu). Từ mờ sáng cho đến chiều tối, con phố này luôn có người tìm việc đứng chờ trong đó có chị em muốn “bán sữa” (vì con họ sau khi sinh đã chết). Xã hội văn minh nên nhiều phụ nữ cả Tây lẫn ta muốn giữ bộ ngực sau khi sinh con đã thuê họ về làm vú nuôi. Thậm chí nhiều gia đình Hoa kiều nuôi họ để hằng ngày vắt sữa cho cha mẹ già uống.

    Con sen, anh xe, u già, chị khâu… xuất hiện trên rất nhiều bài báo xuất bản trước năm 1954. Từ chuyện họ bị coi khinh hay lấy cắp tiền bạc đến chuyện chủ nhà có tình ý… Những con sen khép nép ở quê nhưng ra đô thị sẵn sàng đồng ý ngủ với đàn ông ở phòng trọ, anh xe có vợ ở quê song sẵn sàng bỏ tiền thuê nhà cho các cô bán hàng rong để thi thoảng chạy qua “cải thiện”… tất cả đều phơi trên mặt báo. Phóng sự dài kỳ “Cơm thầy, cơm cô” của nhà văn Vũ Trọng Phụng tuy không nêu cụ thể phố nào nhưng ai cũng biết ông viết về các quán cơm đồng thời là nhà trọ ở phố Hàng Chiếu. Phóng sự khiến những ai quan tâm đến gia phong, lễ giáo phải lo lắng bởi sự xuống cấp trong lối sống đô thị của chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến. Sự tha hóa đạo đức không chỉ có trong giới làm ăn, buôn bán mà còn có cả ở tầng lớp người giúp việc. Do kẻ đi ở ăn cắp của chủ rồi bỏ trốn khiến cảnh sát cũng khó mà truy tìm, nên từ năm 1935 có một người tên là Vy ở 87B phố Hàng Chiếu đã có sáng kiến bắt con sen, phu xe phải chụp ảnh, khai tên tuổi, quê quán và phải điểm chỉ vào. Năm 1936 có hàng chục người làm nghề “đưa người” ở phố Hàng Chiếu.

    Không chỉ xuất hiện trên các trang báo, họ còn là đề tài của các nhà văn, truyện ngắn “Thanh! Dạ” cho thấy sự khốn khổ của con sen, không biết nghe ai và nếu nghe người này thì bị người khác trong gia đình ấy hành hạ. Truyện “Quyền chủ” phản ánh chủ có sai thì họ vẫn đúng vì họ là chủ, truyện “Tờ giấy 100” kể chuyện vợ một anh giàu có đổ cho người ở lấy cắp tiền. Nhưng thương cảm nhất chính là truyện “Người ngựa ngựa người” cũng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, thân phận anh xe cũng là thân phận của kẻ đi ở, lại gặp gái mãi dâm cùng cảnh ngộ bế tắc không lối thoát. Trong hồi ký của Nguyễn Bắc (Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội 1954-1976) “Thành phố bị chiếm”, ông kể về bà vú ở chợ Hàng Da đã cứu thoát ông khỏi mật thám vào năm 1952.

    Không phải ai làm anh xe, con sen, u già, vú em… đều có cuộc sống bất hạnh, nhờ có mức lương ổn định nhiều người đã cải thiện được cuộc sống của gia đình họ ở quê. Thậm chí có nhiều người từ đi ở đã trở thành giàu có nhờ may mắn, ví dụ như chủ hiệu nem Sài Gòn Tế Mỹ ở đầu phố Hàng Gai xuất thân từ nhà quê ra Hà Nội làm thuê và đi ở cho một hiệu nem đầu tiên ở phố Hàng Quạt do một người vợ Tây góa chồng mở. Một thời gian sau bà này bị liệt, anh này chăm sóc tận tình nên bà ta nhận làm con nuôi rồi nhường cửa hàng cho. Hay từ là người dọn hàng ở chợ Đồng Xuân, một người đàn ông ở Phú Thượng (nay thuộc quận Tây Hồ) đã trở nên giàu có nhờ may mắn và ý chí đã sở hữu cả khách sạn và quán ăn lớn ở phố Hàng Trống.

    Sau năm 1954, chế độ mới coi việc nuôi người làm trong nhà là giai cấp bóc lột nên đã cho họ về quê.

    Tuy nhiên, đến thời kỳ đổi mới thì mọi chuyện đã khác, quan niệm về người giúp việc không còn nặng nề như thời bao cấp. Các gia đình có điều kiện nhưng neo người đã thuê người ở nông thôn giúp việc cho gia đình. Năm 1994, VTV phát sóng bộ phim truyền hình dài tập “Oshin” của Nhật, phim kể về sự vươn lên của một cô gái tên là Oshin từ đi ở trở thành bà chủ và thế là từ đó xuất hiện cái tên “ô sin” dân gian gọi chung những người giúp việc nhà. Và cũng như trước năm 1954, nghề giúp việc thời nay cũng có biết bao nhiêu chuyện bi hài, hay dở khó mà kể hết…

    Ngọc Tiến
    Hà Nội Mới
  • Nghề đưa thư thời Phong kiến

    Nghề đưa thư thời Phong kiến

    Ngày xưa dưới thời phong kiến, vấn đề đưa tin là chỉ có trong lãnh vực triều đình mà thôi. Dân chúng thì chỉ có thể chờ cơ hội để nhờ người này hay người nọ mang thư giùm. Người Pháp có công trong việc tạo ra một hệ thống đưa tin cho toàn dân.

    Nghề đưa thư vào thời này hơi nguy hiểm vì lãnh thổ Việt Nam còn nhiều rừng rú, nơi ẩn náu nhiều thú dữ, nhất là cọp. Có rất nhiều người phát thư bị cọp vật trong khi hành nghề.

    Một đoàn xe chở thơ Saigon Can-Tho
    Một đoàn xe chở thơ Saigon – CanTho
    Xe phát thơ Saigon Tay Ninh
    Xe phát thơ Saigon Tay Ninh
    Ðoàn vận tải thơ bằng chân!
    Ðoàn vận tải thơ bằng chân!
    Nghỉ ngơi
    Nghỉ ngơi
    Công tác chuẩn bị trước khi lên đường phát thư
    Công tác chuẩn bị trước khi lên đường phát thư
    Cọp mò vào làng dân
    Cọp mò vào làng dân
    Bẫy cọp
    Bẫy cọp
    Một con cọp bị bắt (1937)
    Một con cọp bị bắt (1937)
    Một con cọp bị giết
    Một con cọp bị giết
    Nhiều khi phải đi bằng voi để tránh gặp thú dữ
    Nhiều khi phải đi bằng voi để tránh gặp thú dữ

    Chổ trú đêm trong rừng cho mấy người phát thơ
    Chổ trú đêm trong rừng cho mấy người phát thơ

    HinhanhVietNam.com theo free.fr