Bảo Đại là vị Vua cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta. Cai trị đất nước giữa thời kỳ “bản lề”, lại thấm nhuần văn hóa Pháp từ bé, những hình ảnh đáng nhớ về ông thường gắn với đời sống quý tộc phong lưu, “Âu hóa” hơn là chuyện vận mệnh đất nước.
Bảo Đại tiếp xúc với nền văn hóa Pháp từ rất sớm. Bức ảnh trên chụp khi ông còn đang là Hoàng tử Vĩnh Thụy, trong chuyến thăm tới Pháp năm 1922 cùng Vua cha Khải Định (Ảnh: T. Do Khac)
Cũng trong năm 1922, Hoàng tử Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung Kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và bắt đầu quá trình học tập theo chương trình giáo dục Pháp. Đến năm 1932, ông theo học tại Trường Khoa học Chính trị Pháp (Ảnh: Bettmann)
Do tiếp xúc, sống và học tập cùng văn hóa phương Tây từ nhỏ, Bảo Đại trưởng thành giống với một cậu trai pháp bảnh bao hơn là một vị Vua của một nước phong kiến châu Á (Ảnh: Bettmann/CORBIS)
Vị Vua cuối cùng của Việt Nam có vóc dáng cao lớn (1m82), gương mặt điển trai, lối sống phóng khoáng, phong độ, vì vậy mà có đời sống tình cảm khá phực tạp, chịu điều tiếng là mê ăn chơi, hưởng lạc. Bức ảnh này được chụp Bảo Đại trong trang phục dạ hội tại Pháp vào năm 1932 (Ảnh: Agence Mondial)
Bảo Đại được biết đến là một người cưỡi ngựa điêu luyện như một kỵ sỹ. Ông cũng yêu thích và hâm mộ nhiều môn thể thao thời thượng, quý tộc thời đó như golf, tennis, bơi thuyền. (Ảnh: Raymond Reuter/Sygma/Corbis)
Bảo Đại đặc biệt thích chơi Tennis. Vì vậy sau khi về nước ông đã cho xây dựng một sân quần vợt “tiêu chuẩn quốc tế” ngay tại kinh thành Huế, khiến nhiều du khách hiện nay tới thăm di tích Cố đô Huế vẫn nghĩ đó là một công trình hiện đại được xây sau này!
Một bức ảnh hiếm hoi Bảo Đại chụp cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không rõ ngày tháng của bức ảnh nhưng nhiều khả năng là giai đoạn sau khi ông thoái vị và tham gia Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Ảnh: T. Do Khac)
Vào tháng 3/1946, trên tư cách cố vấn tham dự phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh, Trung Quốc, Bảo Đại đã không về nước mà đến Côn Minh rồi qua Hồng Kông, chấp nhận sống cuộc đời lưu vong. Bức ảnh trên nằm trong loạt ảnh được tạp chí Time của Mỹ thực hiện vào tháng 6/1948, tại căn hộ riêng của ông ở Hồng Kông (Ảnh: Life)
Vị cựu Hoàng lưu vong tiếp phóng viên trong bộ vest sáng màu chải chuốt, tay châm thuốc lá như một tay chơi sành điệu. Tại Hồng Kông, để tiện ăn chơi mà không bị chú ý, Bảo Đại đổi tên thành Wang Kunney tiên sinh, tuy nhiên danh phận Đế vương của ông không thể che mắt được người thường. Dân thượng lưu Hồng Kông đồn rằng muốn xem mặt Bảo Đại chỉ cần tìm ở 14 tiệm nhảy, nếu không thấy thì tìm ở các sòng bạc (Ảnh: Life)
Bảo Đại hướng dẫn chú cún cưng của mình thực hiện động tác bắt tay (Ảnh: Life)
Bức ảnh chụp trong một chuyến công tác tới Pháp năm 1948 tại khách sạn Ritz, trung tâm Paris (Ảnh: Bettmann/CORBIS)
Sau thời gian dài lưu vong ở Hồng Kông rồi Pháp, Bảo Đại về nước vào tháng 3/1949 để 4 tháng sau đó lên làm Quốc trưởng Chính phủ Lâm thời Quốc gia Việt Nam do thực dân Pháp dựng lên. Trong hình ông đang đứng nói chuyện với viên sỹ quan Pháp khi vừa đáp xuống sân bay Gia Lâm, Hà Nội vào tháng 3/1954, vẫn trong bộ âu phục chải chuốt quen thuộc cùng cặp kính râm lịch lãm (Ảnh: Life)
Bảo Đại làm Quốc trưởng đến tháng 10/1955 thì bị Ngô Đình Diệm phế truất. Ông sau đó sang Pháp sống lưu vong tại Paris cho đến cuối đời (Ảnh: Life)
Một bức ảnh kháp chụp trong cùng chuyến đi Hà Nội năm đó (Ảnh: Stringer/AFP)
Bảo Đại chụp cùng Tướng Pháp Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi trong chuyến thăm đồng bào thiểu số Tây Nguyên tại Buôn Mê Thuột vào tháng 5/1950 (Ảnh: Stringer/AFP)
Vua Bảo Đại trên trang bìa tạp chí Pháp Paris Match, số ra tháng 9/1953, vẫn với điếu thuốc lá trên tay – thứ gần như gắn liền với “thương hiệu” Bảo Đại (Ảnh: (Ảnh: Walter Carone/Paris Match)
Một bức ảnh “chất lừ” khác cũng trong số tạp chí đó (Ảnh: Walter Carone/Paris Match)
Bảo Đại cùng con gái, Công chúa Phương Mai hào hứng theo dõi cuộc đua Công thức một từ hàng ghế V.I.P tại đường đua Monza huyền thoại của Ý năm 1955. Có lẽ ông cũng là một trong những người Việt đầu tiên có cơ hội xem trực tiếp môn thể thao vốn dành cho giới nhà giàu này (Ảnh: Mario De Biasi/Mondadori Portfolio)
Bảo Đại chụp cùng người vợ Pháp của mình, bà Monique Baudot vào năm 1992, 5 năm trước khi ông qua đời vào năm 1997 (Ảnh: Raymond Reuter/Sygma/Corbis)
Trong miền Nam, tại thành phố Sài Gòn, có hai bạn biết may áo dài xưa thời Nguyễn, đều là những người trẻ đam mê lối cổ và văn hóa phục sức Việt Nam. Họ là Trần Nguyễn Trung Hiếu và Trần Lê Trung Hiếu.
Album ảnh tổng hợp lại các hình ảnh từ các nguồn facbook cá nhân của hai bạn này và nguồn ảnh từ facebook của anh Trần Quang Đức.
Nhằm để nhiều người thấy sản phẩm áo dài may theo lối xưa và cũng để cho mọi người biết hình dáng áo dài xưa khác như thế nào so với sự biến đổi của áo dài trong thời hiện tại. Khi mà có rất nhiều người không còn muốn may áo dài theo lối xưa mà chạy theo xu hướng cách tân áo dài hiện đại trong làng giải trí phim ảnh, thời trang,… khiến cho đa số nhiều người lầm tưởng xem áo dài hiện đại cách tân là trang phục truyền thống của Việt Nam. Điều này rất nguy hiểm bởi phần nào khiến người trẻ quên đi hình dáng xưa của áo dài thời Nguyễn, cũng như những loại áo xưa khác như áo giao lĩnh, viên lĩnh, nhật bình….
Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn. Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc.
Phường Đúc là khu quần cư tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều đình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra. Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu vị Thần Công và Cửu Đỉnh ở Huế. Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì. Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương.
Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia. Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam, ai không tuân thì bị tội. Tại sao lại có hiện tượng này? Kể cũng khó hiểu. Và lệnh này có từ đời nào?
Vệ binh Huế (1910-1920)
Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Bộ, con gái của Đại thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định, bà được phong Nghi Thiên Chương Hoàng hậu, lấy vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận “hậu cần” của Hoàng đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện. Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Bộ để trao đổi cho dễ hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa-Gia Định nghe giọng Huế “đặt sệt” có thể không hiểu mô tê chi cả.
Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam.
Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam, nửa Trung đã trở thành Huế rặt.
Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong Nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân, hay nê nhân, lúc mới vào đều tự nguyện “câm” đi trong thời gian sáu tháng. Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít. Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân. Chờ khi nào thuộc lòng những chữ “nên tránh” gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi…vì những từ này mang điềm gở hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép… hết câm.
Trong truyện hay phim Trung Quốc, các hoàng tử, vương gia thường là các nhân vật tự do tự tại, tiêu dao phóng túng. Nhưng sự thật lúc nào cũng phũ phàng, từ ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ta có thể thấy các hoàng tử, ít nhất là hoàng tử Việt Nam, phải học tập rèn luyện “cực khổ” không thua gì người thường cả.
Thái tử Bảo Long
Khi được tám tuổi, các hoàng tử sẽ bắt đầu học Khai tâm bảo giám và sách Tiểu học. Tiểu học là sách dùng cho các trò nhỏ, nội dung dạy về các nghi tiết như rảy nước, quét tước, thưa gửi, lui tới, trau dồi đạo đức cho thiếu nhi.
Khi đã thông thạo Tiểu học, các hoàng tử sẽ phải học Tứ thư rồi tới Ngũ kinh và Chư sử. Vua Minh Mạng đã miêu tả cách dạy như sau:
“Ngày chẵn, dạy truyện hay kinh, trước giảng chính văn rồi đến bản chú (chỉ những lời chú giải của các tiên nho, chủ yếu là của Chu Hi đời Tống) để cho sáng nghĩa ra. Về Kinh, Truyện, giảng đến thiên nào, trước hãy giảng chính văn, phải đọc thật thuộc lòng để biết rút lấy ý nghĩa chính tâm, tu thân và đạo lý hiếu, đễ, trung, tín.
Ngày lẻ, dạy Chư sử cốt phân tích cho rõ ý nghĩa, không cần bắt đọc thuộc lòng. Khi giảng dạy, nếu có nghĩa gì ngờ, thì về Tứ thư, có Đại toàn phụ lục, về Ngũ kinh, có Ngũ kinh khâm định; về Chư sử, có Ngự phê cương giám ; tra cứu có các sách Tự điển. Hết thảy đều do Nội các phát sách công ra để dùng tra cứu.”
Các hoàng tử dưới 11 tuổi thì học ở tư gia, còn từ 11 tuổi trở lên sẽ học tập ở bốn sở học trong Tử Cấm Thành: Minh Thiện đường, Dưỡng chính đường, Tập thiện đường và Quảng học đường. Vua Minh Mạng còn sai Nội các truyền họp trưởng sử 4 Quảng đường, tuyên chỉ rằng:
“Lũ ngươi có trách nhiệm phụ đạo hoàng tử, nên khuyên bảo các hoàng tử chăm chỉ học hành, không được chơi đùa và nuôi gà chọi, chó săn, làm những việc vô ích, nếu sau khi học hỏi nghỉ ngơi, muốn chơi vui chốc lát, chỉ cho nuôi cá chậu 3, 5 con, còn ngoài ra đều không được, trái lệnh này tuy lỗi ở hoàng tử, nhưng lũ ngươi cũng có lỗi.”
Thế nhưng, các trưởng sử dù sao vẫn là hạ thần, không đủ quyền để chấn chỉnh các hoàng tử:
“Lại thấy Quảng Oai công là Quân có tính kiêu hoang, đặc mệnh Hàn lâm trực giảng là Nguyễn Công Vị riêng sung giảng quan Công phủ, hằng ngày đến dẫn bảo. Vị tâu nói: “Quảng Oai công chuyên chơi đùa mà lười học, sợ một mình thần không thể làm cho nên được”. Vua hỏi rằng: “Không có Nguyễn Khoa Thường là trưởng sử ở đấy à” ? Vị đáp rằng: “Trưởng sử đối với hoàng đệ thấy thì lạy, gọi thì dạ, còn sợ gì mà học”. Vua nói rằng: “Về phận trên dưới thì vậy nhưng còn sự giúp đỡ khuyên bảo thì không thể làm hết chức trách sao ?”.”
Băn khoăn như vậy, nên vua còn định thêm vào ngày 6, 16, 26, buổi chiều khi đồng hồ cát rỏ đến đợt 6, các hoàng tử đều vào hầu ở điện Quang Minh và đem theo sách học tập, chờ xem vua có hỏi. Vua lại dụ các hoàng tử rằng:
“Đến giờ theo lệ định, khi các con vào chầu phải dâng trình sách vở giảng tập để ta hỏi thử. Chẳng qua chỉ lấy đó làm chương trình hạn định. Các con càng phải xét lại ở mình lấy sách làm thầy trọng tình hữu ái, bỏ ý riêng tư không một việc nào, không một ngày nào không phải là học. Ngày sau con lên nối ngôi thì được có dân, được có người, các con làm thân vương, cũng lấy trung hiếu giữ trọn tiếng tốt, cái gì chẳng phải bởi học mà ra?”.
Tuy thế, nhà vua vẫn rất ân cần với các con:
“Trẫm đối với hoàng tử tuy lòng từ ái tự nhiên mà khi đến hầu riêng thì chưa từng lộ ra sắc mặt. Đến như khoá trình giảng học thì rất nghiêm, các hoàng tử không dám xin nghỉ. Nhưng nay tiết thu đông giao tiếp, khí rét khó chịu, các hoàng tử tuổi còn thơ ấu, nếu cứ đi học thì chịu sao được. Song ý ấy không nên cho biết, hoặc đến nhu nhơ lười biếng. Ngươi nên theo ý ta khẽ bảo bọn phụ đạo rằng từ sau phàm khi rét buốt mưa nhiều, có thể sai tán thiện và bạn độc chia nhau đến phủ mà khai giảng. Các hoàng tử cũng phải xuống ngồi chiếu dưới nghe giảng, không được cho là ở nhà tư mà bỏ lễ.”
Khi đến lớp học của các hoàng tử, khung cảnh sẽ như sau:
“Chính giữa nhà đặt một án sách, đặt vị ngồi giảng ở phía tây, 2 viên phụ đạo cùng một chiếu, 2 viên tán thiện cùng một chiếu, 4 viên bạn độc cùng một chiếu, đều ngoảnh về hướng đông. Đặt vị ngồi nghe giảng ở phía đông, các hoàng tử mỗi người một chiếu, phía trước đặt một kỷ sách, đều ngoảnh về hướng tây, chiếu nhất ở dưới vị phụ đạo.
Ngày thường, buổi sớm đồng hồ chuyển lần thứ 1, từ phụ đạo trở xuống đều đến ; chuyển lần thứ 2, các hoàng tử lần lượt đến, tán thiện và bạn độc đều đứng dậy. Các hoàng tử ngồi yên, tán thiện và bạn độc lại ngồi. Các hoàng tử gấp sách đọc bài học hôm trước, xong thì phụ đạo khai giảng. Các tán thiện và bạn độc hiệp đồng dẫn bảo rõ ràng. Giờ tỵ giảng xong, các hoàng tử đứng dậy. Tán thiện và bạn độc đều đứng dậy. Các hoàng tử vái chào phụ đạo, xin lui ; phụ đạo chắp tay đáp lễ. Các hoàng tử về phủ. Từ phụ đạo trở xuống đều lui. Giờ thân lại đều đến, hỏi các điều khó ; xong lại đều lui, tiết thứ tiến lui như trước.”
Ai vắng mặt ngày nào đều bị ghi lại, mỗi tháng ngày 6, 16 và 26 các trưởng sử sẽ nộp sổ nhật kí cho Văn thư phòng để xét ai nghỉ nhiều. Tuy bị ghi tên như thế nhưng nhiều hoàng tử vẫn chán học ham chơi, để bị phạt nặng, như trong sử chép:
“Nay sớ tâu những người từ trước đến nay chăm chỉ học tập, không hề gián đoạn, chỉ có một mình hoàng thân Miên Ký mà thôi; còn những người khác, từ tháng giêng khai giảng đến nay, hoặc được 40-50 ngày, hoặc được 20-30 ngày, thậm chí có người bỏ hết không đến học bưởi nào […] Về chăm học không bỏ như hoàng thân Miên Ký thưởng cho 1 đồng tiền song long hạng lớn để khuyến khích người khác. Học được 40-50 ngày và 20-30 ngày như […] đáng nên phân biệt xử phạt. Nhưng lần này hãy tạm cho truyền chỉ quở trách. Học được hơn 10 ngày như […] bốn người ấy đều phải phạt 3 tháng lương. Đi học chỉ được 4-5 ngày như […] đều phải phạt 6 tháng lương. Còn như không đi học buổi nào như […] đều phải phạt một năm lương. Lũ Trưởng sử quản gia ở các phủ đệ không biết lấy lời nói thẳng can ngăn, lại chẳng biết đem việc tố giác, thực là ngồi yên ăn không. Lũ ấy đều giao bộ Lễ xử trí. Còn các giảng quan, cũng nên bàn đến. Lần này tạm hãy cho miễn xét hỏi. Nếu lại nhận suông cho xong việc, phụ sự ủy thác của ta […]”
Và cũng có lúc các hoàng tử đi học nhưng vui đùa quá trớn dẫn đến chuyện như sau:
“Lần này Hải Ninh quận công Miên Tăng mới được tuyên phong, mở tiệc ngay ở Quảng Học đường. Lúc ấy nhiều người xem trò chơi, gạt đẩy cũng không giãn ra, Tòng Hóa quận công Miên Trữ chợt nói đùa một câu “Đóng cửa lại, bắt làm cỏ”. Vì thế mọi người đều chạy xô ra, có đứa trẻ con tên Thành ngã xuống bị người xéo què. Xét ra, Quảng Học đường là nơi đọc sách cho các hoàng thân, mà lại bày trò chơi khiến người đến xem tụ họp đông như thế đã là chẳng nên; huống chi Miên Trữ lại không biết cẩn thận, bày chuyện nói đùa, đến nỗi mọi người sợ hãi bỏ chạy, từ câu nói đùa thành chuyện uy hiếp. Vậy Miên Trữ phạt lương 1 năm, Miên Tăng phạt lương 6 tháng, lại phải giao 40 lạng bạc cho thân nhân tên Thành để tỏ rõ sự răn đe.”
Khung cảnh lễ bế giảng và khai giảng thì như sau:
“Hằng năm, cuối tháng chạp, đến ngày phong ấn thì nghỉ giảng. Sáng sớm hôm ấy, phụ đạo trở xuống mặc áo bổ phục (áo có bổ tử) ngồi ở bản vị phía tây. Các hoàng tử mặc áo bổ phục lần lượt đến. Phụ đạo vẫn cứ ngồi. Hai viên tán thiện ra đứng trên thềm phía tây, bốn viên bạn độc ra đứng dưới thềm phía tây, đều ngoảnh hướng đông. Các hoàng tử ở trên thềm gian chính giữa, hướng vào án lạy 2 lạy. Phụ đạo đứng lên nhận lễ, vẫn ở bản vị làm lễ đáp tạ 1 lạy, lễ xong đứng ngoảnh về phía đông. Các hoàng tử lui ra đứng trên thềm phía đông, hướng về phía tây. Tán thiện và bạn độc ở trên và ở dưới thềm phía tây bước xuống, hướng vào các hoàng tử làm lễ 1 vái. Các hoàng tử vái đáp. Lễ xong, vẫn đều chiếu bản vị ở đông tây mà ngồi, khoản tiếp một lần rồi lui. Sau ngày khai ấn sang năm, Khâm thiên giám chọn ngày tốt, tâu xin khai giảng. Ngày ấy gặp nhau, lễ tiết đều theo như trước.”
Có một câu chuyện về ngày khai giảng của các hoàng tử rằng:
“Đến ngày khai giảng vào bái, vua dụ các hoàng tử, hoàng đệ rằng : “Nay đã đặt chức sư bảo, các ngươi đều phải chăm chỉ học tập, ngày tháng tiến tới dần lên, cho thành đức nghiệp, nếu không được thế sẽ phải quở mắng”. Giảng quan, vốn là Cần Chính điện đại học sĩ Ngô Đình Giới nhân tâu rằng: “Thần bất tài mà được dự ngôi tây tịch(chỗ ngồi của thầy dạy các hoàng tử), xin ban giáo hình (thứ hình cụ của thày dạy học, tức là cái roi) cho thần”. Vua bèn trao cho cái roi.”
Không chỉ học kinh thư, các hoàng tử còn phải học về việc của triều đình cũng như cưỡi ngựa, bắn cung. Hàng tháng vào ngày 17, các hoàng tử từ 14 tuổi trở lên phải vào hầu Thái hậu ở cung Từ Thọ. Ngày 1,11 và 21 thì buổi sáng vào chầu ở điện Cần Chính, xem vua và các quan đại thần bàn việc. Buổi chiều, các hoàng tử tập cưỡi ngựa dưới sự giám sát của các thị vệ viện Thượng Tứ. Tuy vậy, vẫn có hoàng tử ham chơi để rồi bị phạt nặng:
“Hoàng tử Miên Phú cùng với lũ hạ nhân cưỡi ngựa diễn tập. Đến trước trại quân Thần cơ, ngựa tên Hoàng Văn Vân gặp người đàn bà già là Hà Thị Điểm, không kịp tránh xa, bị ngựa giày xéo mà chết. Ta xem sớ tâu, vô cùng buồn giận. […] Vậy cho lột bỏ mũ áo hoàng tử của Miên Phú, xóa bỏ lương bổng hàng năm, phải đóng cửa tự xét mình, không được ra ngoài một bước, không được dự vào hàng hoàng tử, chỉ gọi tên Phú mà thôi. […]”
Mặc dù ca dao có câu “Con vua thì lại làm vua” nhưng thực ra việc được phong tước vị cao hay thấp cũng còn tùy thuộc vào sự phấn đấu của mỗi người, như vua Thiệu Trị từng dụ:
“Năm nay gặp năm ta thọ 40 tuổi, nên đã sai các hoàng tử, hoàng đệ chưa được phong tước là 10 người đến trước sân hỏi, có 7 người ứng chế được. Vậy hoàng tử Hồng Y tấn phong làm Kiến Thụy công, Hồng Hưu làm Gia Hưng công, Hồng Phó làm Thái Quốc công, Miên Tẩu làm Phong Quốc công, Hồng Tố làm Hoằng Trị quận công, Miên Tăng làm Hải Ninh quận công, Miên Lâm làm Hoài Đức quận công. Miên Sạ, Miên Ngộ học thức không thông, thơ mất niêm luật, truyền chỉ thân sức, Miên Thái tuổi đã nhiều lại chẳng biết tu tính, chỉ quen chơi bời, chẳng tập lễ độ, chẳng thích thi thư, chữ viết không thành, văn lại phạm húy, phạt 2 năm lương. Các sư bảo Lê Đăng Doanh, Hồ Văn Nghĩa công tội bù trừ. Những tên tán thiện, bạn độc cho các hoàng tử ứng chế được, cùng những tên giảng tập cho các hoàng đệ đều thưởng mỗi người thêm một cấp. Những tên giảng tập cho Miên Thái, giáng hai cấp.”
Ngoại trừ những cơ hội đặc biệt như vậy, thì lệ thường phàm hoàng tử đến 15 tuổi thì bộ Lễ tâu xin phong tước, đợi vua thân xét hạch hoàng tử ấy nếu quả là ngày càng tôn kính đạo nghĩa thì lập tức cho làm lễ tấn phong tước công. Nếu hoàng tử ấy đức nghiệp chưa sáng tỏ nhưng mọi sự đều đúng khuôn phép thì hãy đình phong 1 lần, đợi 5 năm sau lại bộ Lễ lại làm sớ xin tâu.
Sau khi được phong tước, các hoàng tử sẽ dọn ra ngoài Tử Cấm Thành, ở phủ đệ riêng. Tuy nhiên, không phải là ở phủ đệ thì các hoàng tử muốn làm gì thì làm:
“Hoàng tử Miên Trữ mới ra ở riêng, có lấy thiếp mà không tâu lên vua, vốn là không hợp, vậy phạt lương 3 tháng để răn đe.”
“Hôm qua nghe trong kinh thành có tiếng thanh la và tiếng trống, sai người xét hỏi, thì là phủ hoàng tử Miên Thẩm diễn tuồng. Trong số lính thuộc phủ Miên Thẩm thì ra có 17 tên hơi biết nghề múa hát, hôm ấy y sai diễn để làm vui. Các hoàng tử học tập có thừa thời gian nên lấy thơ văn làm vui, không được gần lũ tiểu nhân diễn tập âm nhạc. Vậy phạt Miên Thẩm hai năm lương, đình việc chầu hầu 3 tháng để tỏ sự răn đe.”
“Hàm Thuận quận công Miên Thủ chứa nuôi phường tuồng. Thử nghĩ lời Thiếp Mông nói rằng: “Không được thường thường say rượu múa hát trong nhà”. Vậy lẽ ra nên lập tức theo lệ phạt Miên Thẩm nặng hơn. Nhưng nay Miên Thủ đã đem ngay lũ phạm tội giải đến tra xét, và tự nhận tội, vậy là còn biết hổ thẹn, xử nhẹ phạt một năm lương để tỏ răn sợ.”
Sao, các bạn còn nghĩ làm hoàng tử là tiêu dao tự tại hay không? Hay là “trách nhiệm đi kèm với quyền lợi”?
Trải qua 387 năm với 9 đời chúa và 13 đời vua, triều đại vua chúa nhà Nguyễn đã trải qua biết bao thăng trầm và sau đây là tổng hợp của LỊCH SỬ VIỆT NAM về những cái nhất của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam ta
Kinh thành Huế về ban đêm
1. Ở ngôi lâu nhất:
Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1525-1613), con út của Nguyễn Kim, xưng Chúa năm 1558 và băng hà năm 1613 trị vì 55 năm, có 10 con trai và 2 con gái. Một người con gái lấy chúa Trịnh Tráng. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái tổ Gia Dụ hoàng đế.
2. Ở ngôi ít nhất:
Vua Dục Đức lên ngôi theo di chiếu của Tự Đức. Hai phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nại rằng Dục Đức muốn cải di chiếu nên đã sai Trần Tiễn Thành đọc bớt đi (đoạn nói mắt vua có tật, tính thì hiếu dâm….), có tang vẫn dùng áo màu…. dâng sớ lên Hoàng thái hậu đặt vua khác. Vua bị phế khi vừa lên ngôi được 3 ngày ( 20, 21, 22.7.1883), bị giam và bỏ đói, rồi chết.
3. Lên ngôi muộn nhất:
Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi hay Chúa Bụt (1563-1635), con trai thứ sáu của Chúa Tiên, kế nghiệp năm 1613 vì các anh đều chết sớm và một anh bị Chúa Trịnh giữ tại Đàng Ngoài, có 11 con trai và 4 con gái. Chúa Sãi là người đầu tiên trong dòng họ mang họ Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mẹ ngài có thai chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ “Phúc”. Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là “Phúc”. Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hi Tông Hiếu Văn hoàng đế.
4. Lên ngôi sớm nhất:
Vua Duy Tân sinh ngày 19-9-1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh. Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải tìm chọn một người càng nhỏ tuổi càng hay. Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình hốt hoảng chạy đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay Vĩnh San ra trình diện quan Pháp.
Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý ngay vì theo họ đứa bé mặt mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhác và đần độn, chắc dể sai khiến sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được, nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu cho người nối nghiệp là Duy Tân.
5. Sống thọ nhất:
Chúa Nguyễn Hoàng, thọ 88 tuổi. Ông là người đầu tiên khai sinh ra lịch sử nhà Nguyễn 9 chúa 13 vua, dân thường gọi là chúa Tiên. Sự nghiệp của chúa bắt đầu từ tháng 10 năm 1558 khi vào trấn thủ Thuận Hóa, hòng thoát khỏi tai mắt của họ Trịnh. Chúa có công mở rộng bờ cõi nước ta về phía Nam, biên cương trong thời chúa trị vì đến tận tỉnh Phú Yên ngày nay.
6. Thọ kém nhất:
Ông Dưỡng Thiện, tên là Ưng Ðăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả.
Có nhiều ông quan thấy vậy liền trả ấn lại cho triều đình, từ quan rồi đi chiêu mộ binh mà đánh Tây.
Có sách nói rằng Ưng Ðăng được tin triều đình tới rước mình về làm Vua, Ưng Ðăng sợ quá chui xuống gầm giường trốn, mọi người phải lôi ra, ông la hét khóc lóc thảm thiết nhưng vẫn bị đem lên kiệu đưa về cung. Ông viện đủ mọi cách để từ chối nhưng vẫn bị hai ông Tường và Thuyết ép phải lên ngôi. Vua Kiến Phúc ở ngôi được có hơn 6 tháng thì phải bệnh mất ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884). Có sách nói rằng Vua bị ông Tường thuốc chết vì Vua bắt gặp ông Tường đang tư tình với bà phi Nguyễn Thị Hương, để bịt miệng Vua, lợi dụng lúc Vua đang bệnh ông Tường bỏ thuốc độc vào thuốc trị bệnh của Vua.
7. Có nhiều con nhất:
Vua Minh Mạng, 142 người con. Ngoài bà phi Hồ Thị Hoa (mẹ vua Thiệu Trị sau này), Minh Mạng còn có hàng trăm bà phi, tần khác nữa, trong đó 40 bà có con với vua, tổng cộng được 78 hoàng tử và 64 hoàng nữ. Không kể chuyện hậu cung, Minh Mạng là một ông vua văn võ kim toàn, đưa nước Việt ta trở thành một trong những nước hùng mạnh nhất Đông Nam Á thời bấy giờ. Vua ở ngôi 21 năm (1820- 1841), thọ 49 tuổi.
8. Vị vua thể hiện hiếu thảo nhất
Là vị vua hiếu đạo bậc nhất trong số các vị hoàng đế triều Nguyễn. Mẫu hậu là bà Từ Dũ được vua săn sóc, tôn kính, vâng lời hết mực. Bà truyền bảo điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào sách tùy thân mà nghiền ngẫm, gọi là “Từ huấn lục” (sách chép lời mẹ dạy). Trải qua suốt 36 năm chấp chính ngai vàng, Tự Đức bao giờ cũng dành ngày chẵn vào cung vấn an sức khỏe mẹ, ngày lẻ thì lo việc triều nghi, chẳng vì ngồi trên chỗ vạn năng quyền thế mà lơ là phận làm con. Không những thế, có gì lo âu, vua liền thỉnh ý để được nghe lời dạy bảo. Chính vì thế, bà đã từng đề nghị giảm thuế má cho dân vào những khi gặp thiên tai, mất mùa, đói kém, nhà vua đều làm theo ý mẹ. Có lần, ngày mai là đến kỳ giỗ kỵ tiên đế Thiệu Trị, thế mà hôm ấy nhà vua ham săn bắn, gặp nước lụt chảy mạnh bất ngờ, quan quân chưa dám dong thuyền hồi cung, phải mắc kẹt chốn ngoại thành rừng Thuận Trực. Bà Từ Dũ sai quan Nguyễn Tri Phương đi rước, khi vào cung, vua biết lỗi, dâng roi, nằm xuống chờ quở phạt. Bà giận, quay mặt chẳng nói, sau mới tha cho hình phạt, chỉ trách dạy bằng lời mà thôi. Xem thế, đủ biết vua Tự Đức thờ mẹ rất chí hiếu.
9. Vị vua có nhiều bài thơ nhất
Vua Tự Đức là người uyên thâm nhất về nền học vấn Ðông Phương, nhất là Nho học. Vua giỏi về cả sử học, triết học, văn học nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Vua đã để lại 600 bài văn và 4.000 bài thơ văn chữ Hán và khoảng100 bài thơ chữ Nôm. Thơ văn nhà vua phản ánh một con người nhân hậu, một tâm hồn đa cảm, một tư chất hâm mộ nghệ thuật. Tư chất ấy cũng biểu lộ rõ trên nghệ thuật kiến trúc của lăng vua. Sử cho biết chính nhà vua đã “chuẩn định” (décider) mô thức xây dựng nó. Trong vòng La thành rộng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ thống thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch bát tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
10. Người duy nhất không làm vua nhưng có nhiều con trai làm vua nhất:
Ông Nguyễn Phúc Hồng Cai, em trai của Tự Đức; vì Tự Đức không có con nên thực dân Pháp lần lượt đưa 3 con trai của ông lên làm vua với số phận khác nhau: Kiến Phúc bị đầu độc chết, Hàm Nghi bị đi đày, còn Đồng Khánh thì rất ngoan ngoãn làm tay sai cho Pháp. Dân Huế có câu ca:
” Một nhà sinh được ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài”
11. Cai trị lãnh thổ rộng nhất.
Minh Mạng (1820- 1840) cai trị lãnh thổ rộng nhất, vì thời đó, triều đình nhà Nguyễn còn cai trị 1 phần đất phía đông của nước Lào (Sầm Nưa, Xavannakhet, Kham Keut, Mương Lam, Sam Teu…) lại bỏ việc ”bảo hộ” Campuchia đổi thành Trấn Tây thành, nhập vào lãnh thổ Đại Nam.
12. Làm vua nhiều ” kịch tính” nhất:
Nguyễn Phúc Hồng Dật (1846-1883), con út của Thiệu Trị; năm 1883, các quan sai lính đến xóm nghèo Kim Long đón Dật về cung để đưa lên làm vua mới, Dật quá sợ khóc thét lên, cố hết sức thoái thác, nhưng lính cứ bắt về lên ngôi, hiệu là Hiệp Hòa; mấy tháng sau Hiệp Hòa viết chiếu xin thôi làm vua. Các quan giả vờ đồng ý, cho khiêng võng ra ngoài thành rồi buộc ép uống thuốc độc mà chết
13. Vua duy nhất có nhiều vợ mà không có dù chỉ 1 đứa con:
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1829- 1883), làm vua hiệu Tự Đức, có hơn ba trăm vợ (trong đó hạ cố lấy cả 1 bà đã từng có chồng, có con với chồng trước) và cũng dùng thuốc quý “Nhất dạ, lục giao, sinh ngũ tử” (1 đêm, 6 lần gặp vợ, sinh 5 con) như ông nội của Tự Đức là Minh Mạng đã từng có đến 142 người con, nhưng cuối cùng Tự Đức vẫn là ông vua duy nhất có rất nhiều vợ mà không có 1 người con ruột nào cả.
14. Vua bù nhìn mạt hạng nhất:
Danh hiệu này của dân chúng Huế khinh bỉ bêu tặng Nguyễn Phúc Bửu Đảo ( 1884-1925 ), làm vua lấy hiệu là Khải Định, với câu ca:
“ Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây,
Nghề này thì lấy ông này (là) tiên sư”
Là vua đầu tiên ở Việt Nam xuất ngoại, sang tận châu Âu để dự hội chợ thuộc địa, bị Nguyễn Ái Quốc chế diễu qua vở kịch “Con rồng tre”; tăng 30% thuế trong cả nước để lấy tiền tổ chức sinh nhật lần thứ 40 (gọi là Tứ tuần Đại khánh) của mình. 1 năm sau, Khải Định chết, lễ tang kéo dài 86 ngày. Ông ta có 12 vợ nhưng không vợ nào có mang; công luận Huế và nhiều sách ghi rõ, Vĩnh Thụy là con 1 hoàng thân, bà mẹ có mang rồi mới được đưa vào cung để đẻ và Khải Định nhận là con để khỏi bị mang tội, mang tiếng là “tuyệt tự”.
15. Người đầu tiên lãnh đạo quân chống lại phương Tây:
Năm 1644, chúa Nguyễn Phúc Lan là ông vua/chúa đầu tiên dám đứng mũi chịu sào và cầm đầu đoàn tàu chiến của thủy quân Việt Nam đánh nhau quyết liệt với 1 hạm đội có nhiều trọng pháo hùng hậu của Hà Lan. Kết quả là ta thắng lớn, tàu địch 1 chiếc nổ tung, 1 chiếc đâm vào đá ngầm mà vỡ, còn chiếc nhỏ nhất bỏ chạy trốn.
16. Có nhiều con nhất:
Nếu như Minh Mạng theo tính số con chính thức là ông vua có nhiều con nhất với 142 con (78 trai, 64 gái) thì Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) là ông chúa có nhiều con nhất; 17 tuổi làm chúa, tuy chỉ sống đến 51 tuổi nhưng đã kịp có 146 con, trong đó có 38 con trai; quá đông con nên ông ta không sao nhớ hết tên, đứa nào vào chào, phải xưng tên, xưng tuổi. Ông có câu thơ: “Mình tuổi thọ ít, nhưng phúc nhiều….”.
17. Người duy nhất vừa làm vua, vừa đi tu:
Nguyễn Phúc Chu (1675- 1725), tự xưng là Quốc Chúa, sùng đạo Phật, lên chùa quy y với pháp danh là Thiên Túng đạo nhân; 34 năm cầm quyền cho quan quân mở đất suốt vùng Ninh Thuận, Bình Thuận và cả Nam Bộ ngày nay.
18. Triều đại có nhiều vua bị bắt đi đày ra nước ngoài nhiều nhất:
Nhà Nguyễn liên tiếp có 3 vua: Nguyễn Phúc Ưng Lịch (1872- 1943) hiệu Hàm Nghi, bị đày đi Algeria 47 năm đến chết; Nguyễn Phúc Bửu Lân (1879- 1954) hiệu Thành Thái, bị Pháp đày sang đảo Réunion bên châu Phi trong 31 năm, rồi quản thúc tại Sài Gòn; Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900 – 1945) hiệu Duy Tân, bị đày ở đảo Réunion từ năm 1916 đến khi chết tan xác trong 1 “tai nạn” máy bay rất đáng ngờ năm 1945.
19. Người quản lý Đàng Trong đầu tiên dám xưng Chúa:
Không phải là ông Nguyễn Hoàng, dẫu ông sống đến 88 tuổi và đứng đầu Đàng Trong đến 55 năm nhưng vẫn phải giữ thế là quan ngoài biên ải của vua Lê và vẫn phải triều cống đầy đủ cho Chúa Trịnh. Khi Nguyễn Hoàng chết, con trai là Nguyễn Phúc Nguyên là người đầu tiên dám trả lại tờ sắc phong và xưng làm Chúa.
20. Triều đại có nhiều vụ khước từ trốn tránh làm vua nhất:
Nhà Nguyễn có tới 3 vụ khước từ trốn tránh làm vua. Năm 1883, phế xong vua Dục Đức, các quan đi đón Nguyễn Phúc Hồng Dật (1846 -1883) lên ngai vàng, ông này vội chối từ: “Tôi tư chất tầm thường, không dám nhận”. Cuối năm đó, lính mang võng bắt Nguyễn Phúc Ưng Đăng về nhận ngai vàng, ông này run rẩy thưa: “Ta còn bé, sợ không làm nổi”. Sáu năm sau, các quan lại đi tìm bắt Nguyễn Phúc Bửu Lân, 8 tuổi, về làm vua; Lân hét lên sợ hãi: “Các ông mần chi rứa? Bắt tui à? Các ông mần chi phải đợi ả (mẹ) tui về đã!”. Lát sau bà mẹ Lân về, bà òa lên khóc, gào thét: “Lạy các quan! Xin các quan tha cho mẹ con tui!”.
Cả 3 vụ chối từ làm vua kể trên đều có kết cục đen tối: Hồng Dật làm vua được 5 tháng bị ép uống thuốc độc chết; Ưng Đăng làm vua được 8 tháng bị đổ thuốc độc chết lúc 15 tuổi; còn Bửu Lân bị Pháp vu cho là điên, gạt ra khỏi ngôi và đưa đi đày ở 1 hòn đảo giữa Ấn Độ Dương trong 31 năm, sau đó bị quản thúc ở Sài Gòn 7 năm cho đến khi chết già năm 1954.
21. Vua duy nhất bắt dân kiêng tên của con dâu:
Thường thì các vua bắt dân kiêng tên của mình, riêng Nguyễn Ánh bắt dân kiêng thêm tên Hoa của cô con dâu 16 tuổi (tức là Hồ Thị Hoa, vợ đầu của Nguyễn Phúc Đảm, sau này lên ngôi hiệu Minh Mạng); do đó chợ Đông Hoa (Huế) phải đổi tên là chợ Đông Ba, cầu Hoa (Gia Định) phải đổi tên thành cầu Bông (gần quán Hương Đồng 4 mà quán Sài Gòn hay giao lưu), trấn Thanh Hoa phải đổi tên là tỉnh Thanh Hóa, cả đến vai tuồng Phàn Lê Hoa cũng bị đổi là Phàn Lê Huê!
22. Sống nhiều năm nhất ở nước ngoài:
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1913- 1997), làm vua hiệu Bảo Đại, là người giữ kỷ lục sống nhiều năm nhất ở nước ngoài. Thủa bé ở Pháp để cha mẹ nuôi Charles dạy dỗ 15 năm, lên ngôi vua rồi tiếp tục sang Pháp học 7 năm nữa; năm 1938 bị bắn gãy chân, sang Pháp 1 năm chữa chạy; đã thoái vị năm 1945, lại còn chạy sang Hồng Kông lánh đời 3 năm; ra làm quốc trưởng bù nhìn cho Pháp năm 1950 đến 1954, bị Ngô Đình Diệm truất phế, ông “tự đi đày” thêm 43 năm ở nước Pháp; tổng cộng đời ông ở nước ngoài là 69 năm.
23. Thân Tây và nịnh Tây nhất:
Nguyễn Phúc Ưng Xụy, tức Ưng Đường, 2 tuổi vào làm con nuôi Tự Đức, 21 tuổi được Pháp chọn đưa lên làm vua, hiệu là Đồng Khánh, việc đầu tiên là ra ngay 3 đạo dụ phong cho 3 quan Tây làm “Bảo hộ quân vương”, “Bảo hộ công”, “Dực quốc công”; mọi sự lớn nhỏ đều nhất nhất làm theo lệnh Tây, đích thân ông ta ra lệnh trong cung vứt hết rượu ta, ông chỉ chuyên uống rượu Tây, ở ngôi được 3 năm thì ốm chết. Ở Việt Nam sau này xuất hiện loại “Bánh trung thu Đồng Khánh”.
24. Những ông vua có con ruột không mang họ mình:
Tuy trước đó đã có vợ, ông cựu hoàng Ưng Lịch (Hàm Nghi) khi bị đi đày ở Algeria đã lấy vợ đầm, có 1 con trai, 1 con gái; cựu hoàng Vĩnh San (Duy Tân) khi bị đi đày giữa Ấn Độ Dương cũng lấy 2 bà vợ đầm, được 3 con trai, 2 con gái; tất cả 7 người con của 2 ông vua này đều không chịu mang họ Nguyễn Phúc và đều không biết nói tiếng và viết chữ Việt Nam.
25. Triều đại ban lệnh kỵ húy nhiều nhất:
Xa xưa không có tục lệ này, nhưng từ đầu đời nhà Trần đến hết đời Nguyễn, đã có 40 lần vua chúa ban lệnh húy kỵ tên họ vợ chồng con cái họ hàng nhà vua, với 531 lượt chữ; riêng triều đại Nguyễn có tới 22 lệnh kỵ húy, 1 mình Thiệu Trị chỉ làm vua 5 năm mà ban tới 8 lệnh kỵ húy. Một lệnh lần thứ 4 của Tự Đức (1848- 1883) đã kỵ húy tới 47 chữ, trong đó có 2 chữ tên thưở nhỏ của ông là Thì và Nhậm, khiến cho danh sĩ Ngô Thì Nhậm (1746- 1803) dẫu đã chết ba bốn chục năm trước bị gọi lệch sang thành “Ngô Thời Nhiệm”. Hiện nay Sài Gòn cũng đang có 1 con đường mang tên Ngô Thời Nhiệm.
26. Bị vu oan nhất:
Thành Thái lên ngôi đúng ngày mùng 1 Tết (dương lịch là 31/1/1889). Ông là vua duy nhất bị Pháp vu cáo là “điên rồ” rồi hất ra khỏi ngai vàng năm 1906, đẩy đi đày và chết nghèo khổ ở Sài Gòn năm 1954.
Vào thời đại phong kiến, chỉ cần nhìn mặt vua là cũng có thể rơi đầu vì chỉ muốn ám sát vua nên mới muốn biết mặt vua như thế nào mà thôi. Cũng nhờ vào cái tục lệ nầy mà xưa kia vua Lê Lợi đã thoát chết khi bị quân Minh vây, chỉ cần vua mặc quần áo thường là có thể chạy thoát vì không ai biết mặt vua ra sao.
Dưới thời Pháp thuộc, các ông Vua Việt Nam đã trở thành những “tài tử” nổi tiếng để Pháp bán bưu thiệp, thời đó phải coi là một nhục quốc thể. Nhưng cũng “nhờ” vào đó mà ngày nay chúng ta mới biết được khuôn mặt của các vì vua.
Vua Gia Long (1802-1820)
Vua Gia Long, người thành lập Triều đại nhà NguyễnHoàng tử Cảnh (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)
Vua Minh Mạng (1820-1840)
Vua Minh MạngẤn của vua Minh MạngLăng vua Minh Mạng ở HuếCổng vào lăng vua Minh Mạng
Vua Tự Ðức (1847-1883)
Vua Tự ÐứcCác bà vợ vua Tự Ðức sống đến đầu thế kỷ thứ 20
Vua Hàm Nghi (1884-1885)
Vua Hàm NghiDi ảnh vua Hàm nghi thờ tại lâu đài De la Nauche (France)Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)Ðám cưới vua Hàm Nghi ở AlgérieDân chúng chờ đợi xe đám cưới vua Hàm Nghi ở AlgérieNgôi mộ của vua Hàm Nghi ở làng Thonac (France
Vua Ðồng Khánh (1885-1889)
Vua Ðồng Khánh
Vua Thành Thái (1889-1907)
Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm. Các em của Vua Thành Thái (1891)Hai người vợ của vua Thành TháiCác anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)Vua Thành TháiVua Thành Thái trong triều phụcVua Thành Thái trong lúc còn tại vịVua Thành Thái trong lúc bị đày bên đảo RéunionVua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)Vua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)Cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế lần cuối (1953)Vua Bảo Ðại đến thăm cựu hoàng Thành Thái tại Saigon (1953)Hoàng hậu Từ Minh, thân mẫu cựu hoàng Thành TháiBà Ðoàn Thị Châu, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái
Vua Duy Tân (1907-1916)
Vua Duy Tân (5-9-1907)Vua Duy Tân (19-9-1907)Vua Duy TânVua Duy Tân (1907)Vua Duy Tân (năm 30 tuổi)Bà Nguyễn Thị Ðịnh, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy TânBà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi)Duy Tân và các anh chị em
Vua Khải Ðịnh (1916-1925)
Vua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải Ðịnh và thái tử Vĩnh Thụy tại Paris năm 1922Bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, vợ của vua Khải Định (theo ông Nguyễn Duy Chính ở VN)
Vua Bảo Ðại (1925-1945)
Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Ðại trong tương lai)Thái tử Vĩnh Thụy (1925)Vua Bảo ÐạiVua Bảo ÐạiVua Bảo Ðại và Hoàng hậu Nam PhươngHoàng hậu Nam Phương, vợ của vua Bảo ÐạiHoàng hậu Nam PhươngVua Bảo ÐạiVua Bảo Ðại trong một buổi lễ năm 1933Cựu hoàng Bảo Ðại bên Pháp (tháng 12 năm 1995)Cựu hoàng Bảo Ðại và chiếc ấn Hoàng Ðế Chi BửuChiếc ấn Hoàng Ðế Chi BửuThái tử Bảo Long, con của vua Bảo ÐạiThái tử Bảo Long và các quan đại thần
Những người trong hoàng tộc
Một Hoàng Thái hậu (không biết tên gì)Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)