Vào thời đại phong kiến, chỉ cần nhìn mặt vua là cũng có thể rơi đầu vì chỉ muốn ám sát vua nên mới muốn biết mặt vua như thế nào mà thôi. Cũng nhờ vào cái tục lệ nầy mà xưa kia vua Lê Lợi đã thoát chết khi bị quân Minh vây, chỉ cần vua mặc quần áo thường là có thể chạy thoát vì không ai biết mặt vua ra sao.
Dưới thời Pháp thuộc, các ông Vua Việt Nam đã trở thành những “tài tử” nổi tiếng để Pháp bán bưu thiệp, thời đó phải coi là một nhục quốc thể. Nhưng cũng “nhờ” vào đó mà ngày nay chúng ta mới biết được khuôn mặt của các vì vua.
Vua Gia Long (1802-1820)
Vua Gia Long, người thành lập Triều đại nhà NguyễnHoàng tử Cảnh (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)
Vua Minh Mạng (1820-1840)
Vua Minh MạngẤn của vua Minh MạngLăng vua Minh Mạng ở HuếCổng vào lăng vua Minh Mạng
Vua Tự Ðức (1847-1883)
Vua Tự ÐứcCác bà vợ vua Tự Ðức sống đến đầu thế kỷ thứ 20
Vua Hàm Nghi (1884-1885)
Vua Hàm NghiDi ảnh vua Hàm nghi thờ tại lâu đài De la Nauche (France)Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)Ðám cưới vua Hàm Nghi ở AlgérieDân chúng chờ đợi xe đám cưới vua Hàm Nghi ở AlgérieNgôi mộ của vua Hàm Nghi ở làng Thonac (France
Vua Ðồng Khánh (1885-1889)
Vua Ðồng Khánh
Vua Thành Thái (1889-1907)
Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm. Các em của Vua Thành Thái (1891)Hai người vợ của vua Thành TháiCác anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)Vua Thành TháiVua Thành Thái trong triều phụcVua Thành Thái trong lúc còn tại vịVua Thành Thái trong lúc bị đày bên đảo RéunionVua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)Vua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)Cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế lần cuối (1953)Vua Bảo Ðại đến thăm cựu hoàng Thành Thái tại Saigon (1953)Hoàng hậu Từ Minh, thân mẫu cựu hoàng Thành TháiBà Ðoàn Thị Châu, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái
Vua Duy Tân (1907-1916)
Vua Duy Tân (5-9-1907)Vua Duy Tân (19-9-1907)Vua Duy TânVua Duy Tân (1907)Vua Duy Tân (năm 30 tuổi)Bà Nguyễn Thị Ðịnh, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy TânBà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi)Duy Tân và các anh chị em
Vua Khải Ðịnh (1916-1925)
Vua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải ÐịnhVua Khải Ðịnh và thái tử Vĩnh Thụy tại Paris năm 1922Bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, vợ của vua Khải Định (theo ông Nguyễn Duy Chính ở VN)
Vua Bảo Ðại (1925-1945)
Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Ðại trong tương lai)Thái tử Vĩnh Thụy (1925)Vua Bảo ÐạiVua Bảo ÐạiVua Bảo Ðại và Hoàng hậu Nam PhươngHoàng hậu Nam Phương, vợ của vua Bảo ÐạiHoàng hậu Nam PhươngVua Bảo ÐạiVua Bảo Ðại trong một buổi lễ năm 1933Cựu hoàng Bảo Ðại bên Pháp (tháng 12 năm 1995)Cựu hoàng Bảo Ðại và chiếc ấn Hoàng Ðế Chi BửuChiếc ấn Hoàng Ðế Chi BửuThái tử Bảo Long, con của vua Bảo ÐạiThái tử Bảo Long và các quan đại thần
Những người trong hoàng tộc
Một Hoàng Thái hậu (không biết tên gì)Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)
Mời các bạn xem những hình ảnh bất ngờ về Việt Nam rất cổ xưa (thập niên 1890) hết sức quý giá.
Ít ai biết rằng, đã từng có Tượng Nữ thần Tự do trên đỉnh Tháp Rùa, cầu Thê Húc “khẳng khiu”, bãi lầy ở nơi là đường Thanh Niên…
Bộ sưu tập hình ảnh về Việt Nam trong thập niên 1890.
Bờ hồ Hoàn Kiếm, gần lối vào đền Ngọc Sơn, Hà Nội 1896. Một trạm tàu điện đã được xây dựng tại khu vực này năm 1916. Hình ảnh do nhiếp ảnh gia Pháp Firmin André Salles (1860-1929) thực hiện, được giới thiệu trong bộ sưu tập của thành viên Manhhai trên trang Flickr.com.Cầu Thê Húc trên hồ Hoàn Kiếm năm 1896 là một cây cầu gỗ khá thô sơ. Trong lịch sử tồn tại, cây cầu này đã nhiều lần bị gãy và được dựng lại.Đình Trấn Ba, một công trình thanh thoát trong đền Ngọc Sơn, 1896.Tháp Rùa năm 1896, nhìn kỹ sẽ thấy trên đỉnh tháp có một bức tượng Nũ thần Tự do phiên bản thu nhỏ.Ngôi đền phía Bắc trong quần thể đền Ngọc Sơn là nơi thờ danh tướng Trần Hưng Đạo, 1896.Mặt tiền của đền Quán Thánh cạnh Hồ Tây, Hà Nội năm 1896.Bờ Hồ Tây, phía trước đền Quán Thánh, ngày nay là nơi đường Thanh Niên chạy qua.Bốn trụ cột ở lối vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám, 1896. Người Pháp gọi công trình này là “chùa Quạ”, vị có rất nhiều quạ làm tổ ở đây.Hồ nước đối diện Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Khuê Văn Các nằm ở bên phải bức ảnh.Đôi hạc ở hai bên ban thờ trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám.Chùa Một Cột năm 1896.Khung cảnh nhìn từ trên cầu thang của chùa Một Cột, năm 1896.Chùa Một Cột năm 1898, trông khá tàn tạ so với bức ảnh chụp 2 năm trước đó.Nghệ nhân thêu Phan Van Khoan vẽ hình Chùa Một cột để thêu, Hà Nội 1898.
Thợ thêu Phan Văn Khoan tại nhà mình ở Hà Nội trong ngày Tết, 1898.
Chân dung chụp năm 1896 của chàng trai 17 tuổi Vi Văn Định – con trai của Tổng đốc Lạng Sơn Vi Văn Lý. Sau này ông Vi Văn Định trở thành Tổng đốc tỉnh Thái Bình (1929-1937) và tỉnh Hà Đông (1937-1941).
Ông Vi Văn Định cũng là bố vợ của hai người nổi tiếng, đó là Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên và GS Hồ Đắc Di – Hiệu trưởng trường ĐH Y Hà Nội.
Ba người con khác của Tổng đốc Lạng Sơn (ngồi và đứng trên ghế).
Tam quan của đền Kiếp Bạc, Hải Dương năm 1904.
Đàm đông tụ tập nghe xướng danh người trúng tuyển trong kỳ thi Hương Nam Định năm 1897. Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn dành cho mọi đối tượng, người thi đỗ năm sau sẽ lên kinh đô để thi Hội và thi Ðình.
Thí sinh trúng tuyển diễu hành qua các giám khảo, Nam Định năm 1897.
Ông Cao Xuân Dục, Tổng đốc Nam Định có mặt trong buổi lễ vinh danh những người đỗ đạt, 1897.Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn năm 1895.Tòa nhà pháp đình ở Sài Gòn năm 1896 (nay là Tòa án Nhân dân TP HCM).Dinh Toàn quyền ở Sài Gòn, 1896. Công trình này đã bị hai phi công chế độ Sài Gòn ném bom phá hủy năm 1962, được xây dựng lại và khánh thành năm 1966 (lúc này gọi là Dinh Độc Lập), sau năm 1975 thì đổi tên thành Hội trường Thống Nhất.Tòa nhà bưu điện Sài Gòn, 1895.Đại lộ Norodo (nay là đường Lê Duẩn) ở Sài Gòn năm 1896. Phía xa là bức tượng Gambetta
Thảo Cầm Viên Sài Gòn, 1895.Một khách sạn ở Sài Gòn, 1895.Miếu Thất Phủ của người Hoa ở Chợ Lớn, 1895.Rạch Bến Nghé, Sài Gòn năm 1904.
Những bức ảnh dưới đây sẽ cho bạn cách nhìn cận cảnh nhất về cuộc sống của ông cha ta hơn 100 năm trước.
Hội thi chim, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.
Một nông dân ở Hà Nội chở lợn ra chợ bán, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.
Các chị em đang đãi gạo thổi cơm, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.
Hình ảnh người dân đang cấy lúa, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.
Những người ở Hà Nội gánh tre đi bán, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.
Một gia đình tiêu biểu ở Hà Nội, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.
Một phú hộ ở Bắc kỳ, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.
Hớt tóc, lấy ráy tai dạo ở Hà Nội, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.
Một gánh hàng ăn vặt ở Hà Nội, ảnh chụp khoảng năm 1910.
Lính khố đỏ của triều đình – Một người phụ trách thông tin liên lạc
Một khúc sông ở Nam Kỳ, ảnh chụp khoảng từ 1898 đến 1905.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế bắt nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Đây là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang lớn nhất trong lịch sử đấu tranh chống Pháp của dân tộc Việt-Nam và cũng là một trong những cuộc khởi nghĩa duy nhất mà người Pháp đã lưu lại trên bưu thiệp.
Sau hoà ước Quí-mùi (1883) chấp nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc-kỳ, Vua Việt-Nam kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp. Ðề-Ðốc Trương-Văn-Thám đã hưởng ứng phong trào này và nổi dậy chống Pháp chiếm giữ các vùng Bắc-Giang, Thái-Nguyên và Hưng-Hóa. Dân chúng gọi ông là Ðề-Thám.<
Pháp đem quân đánh mãi mà không được nên năm 1894, Pháp phải xử hoà với ông, cho ông cai quản 22 xã trong vùng Yên-Thế, Ðề-Thám lập căn cứ ở Chợ-Gò. Dân chúng gọi ông là con “Hùm thiêng Yên-Thế”. Nhưng hai năm sau thì Ðề-Thám lại nổi lên đánh Pháp, tới năm 1898 thì Pháp lại xin ký hoà ước nhường cho ông thêm nhiều quyền lợi nữa. Ðề-Thám sống yên cho tới năm 1905 thì lại nổi dậy đánh Pháp một lần nữa (những tấm hình ông chụp với gia đình là trong khoãng nầy).
Năm 1908, Ðề-Thám quyết định đánh một cú lớn để chiếm thành Hà-Nội nên đã âm mưu với nhiều người đầu bếp để bỏ thuốc độc (bột datura) cho 200 lính Pháp giữ thành ăn, nhưng vì liều thuốc hơi yếu nên lính Pháp chỉ bị lảo đảo chứ không chết, cuộc âm mưu bất thành.
Ðầu năm 1909, quân đội Pháp quyết định mở chiến dịch lớn để tấn công Ðề-Thám trong tận sào huyệt, Ðề-Thám thua nên bỏ trốn vào rừng. Pháp ra giải thưởng 25.000 đồng cho ai bắt hay giết được Ðề-Thám. Có ba tay lãng tử người Tàu vì ham tiền nên tìm đến Ðề-Thám để xin gia nhập rồi thừa lúc ban đêm ông ngủ mà xúm đến chặt đầu ông đem về lãnh thưởng ngày 10 tháng 2 năm quí-sửu (18-3-1913), chấm dứt một cuộc kháng chiến trường kỳ trên một phần tư thế kỷ.
Mời đọc giả HinhanhVietNam.com xem các bức hình rất quý về cuộc khởi nghĩa Yên Thế – Yên Bái từ năm 1884-1913
Anh hùng Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905)Ðề-Thám và mấy người con cháu (giữa 1898 và 1905)Những bạn cách mạng của Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905)Những bạn cách mạng của Ðề-ThámÐại gia đình của Ðề-Thám trước khi bị bắt hếtGia đình cha vợ của Ðề-Thám bị bắtCha vợ của Ðề Thám bị bắtThi Nho, người vợ thứ 3 của Ðề Thám bị bắtThe Mui, người vợ thứ 2 của Cả Rinh (con nuôi của Ðề Thám)The Mui bị bắtYên Thế, 2 nghĩa quân bị bắt (1911)Ngôi chùa tuyên thệ của nhóm Ðề-ThámMột nghĩa quân và Quynh, con rể của Ðề Thám ra hàngCho Go, repaire de De ThamMột cái thành lũy của Ðề-ThámPhía trong của thành lũyPhía trong của thành lũyMột đồn lính Pháp trong vùng Yên-ThếÐường hào của quân đội Pháp để chống lại Ðề-ThámPháp đang xây dựng một đồn lính trong vùng Yên-ThếLính Pháp trong vùng Yên-ThếVận tải một tử thương (1909)Chôn cất một lính Pháp tử trận (1909)Chuyên chở một thương binh (1909)Thương binh Pháp (1909)Yên Thế, lính Pháp đang nấu ănYên Thế, lính thủy quân Pháp ở Mo TrangKhởi nghĩa Yên ThếKhởi nghĩa Yên ThếKhâm-Sai Lê-Hoàn, kẻ thù truyền kiếp của Ðề-ThámNhóm quân của Phạm Quế ThắngMột người trong nhóm Ðề-Thám đang bị hỏi cungNghĩa quân bị bắt làm tù binhMột người trong nhóm Ðề-Thám bị bắtTù binh Ðề-Thám trên hải cảng Alger trước khi vào tù ở GuyaneTù binh Ðề-Thám tới hải cảng AlgerNhững anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử tử (1908)Thủ cấp của những anh hùng nhóm Ðề-ThámThủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-ThámTù nhân bị bắt trong vụ “Ðầu Ðộc” (1908)Bị xử trảm (1908)Thủ cấp (1908)
Triều Ðình (gồm có Vua và các quan) là cơ quan cai trị cả nước. Mỗi tháng Triều Ðình họp Ðại Triều 2 lần, vào các ngày mùng 1 và 15 âm lịch ở điện Thái Hoà. Các quan văn võ ở Kinh Ðô phải có mặt ở sân Rồng, đứng xếp hàng theo phẩm cấp của mình, lớn trước nhỏ sau.
Ðứng đầu các tỉnh là có quan Tổng Ðốc, sau đó là tới quan Tri Phủ, Tri Huyện và Tri Châu, các quan nầy lo việc hành pháp (áp dụng luật lệ và lo vấn đề an ninh cho dân chúng).
Muốn được làm quan phải là người có học, phải thi đậu các kỳ thi tổ chức bởi Triều Ðình như kỳ thi ở Nam Ðịnh (xin coi phần “Từ dân lên quan”).
Quan càng cao chức thì khi đi lại càng có nhiều lọng (dù lớn).
Vệ binh Huế
Kỵ binhKỵ binhKỵ binhVệ binh Hoàng Thành HuếTrưởng nhóm vệ binh. Hue chef de la garde royaleTượng binhVoi lạyCác quan chầu trong Sân RồngCác quan chầu trong Sân RồngCác quan đang làm lễ tế Nam GiaoMột ông quan uống tràMột ông quan tỉnhMột ông quan nhà NguyễnMột ông quan lớnQuan đi võngQuan đi ngựaTổng Ðốc Hà NộiTổng Ðốc Hà Nội (1885)Một ông quan và vợMột ông quanÐĩnh đồngCư dinh của Hội trưởng Tôn Nhân phủ (hội đồng Hoàng tộc)Các quan lạiCác quan lạiMột quan lớn của triều đìnhMột ông Quan Huyện và các quan ChâuMột quan Tri ChâuThái giámMột người hầu của VuaMột người đánh chuôngMột cổng vào của thành xưaSúng thần côngBan lễ nhạcNhạc công trong hoàng cung
Đối với chúng ta, rất ít người biết có một cộng đồng rất nhỏ (khoảng 22,000) người Jing (người Kinh) sống ở Tam Đảo (Quảng Tây, Trung Quốc) là một “khám phá” gây nhiều cảm xúc. Rồi lúc được biết họ đã rời xa Việt Nam 500 năm mà vẫn cố gắng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Việt trước sức đồng hóa rất mạnh của TQ, xem những điệu múa, đánh đàn bầu, nghe họ hát tiếng Việt làm ta xúc động…
Vào khoảng thế kỷ 16, có một số người Việt di cư lên phía bắc lập nghiệp ở vùng Trường Bình – Bạch Long. Vùng đất đó bấy giờ thuộc Đại Việt nhưng theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh thì Trường Bình bị sáp nhập vào nước Trung Hoa. Người Kinh tại đây là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Người Kinh ở Trung Quốc mặc áo dài truyền thống
Thời gian trôi qua, nhóm người Việt này đã bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Tuy vậy họ vẫn nói tiếng Việt. Họ sinh sống chủ yếu trên 3 đảo (Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu), gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo, thuộc thị xã Đông Hưng, khu tự trị người Choang Quảng Tây (cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km) nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt.
Họ được coi là cộng đồng người Kinh chủ yếu và còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc với tư cách là một trong 56 dân tộc của đất nước này (không bao gồm cộng đồng người Việt mang quốc tịch Việt Nam hiện đang học tập và làm việc tại Trung Quốc)
Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi “Kinh tộc Tam Đảo”, có nghĩa là “Ba hòn đảo của người Kinh”, hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên (nay đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền).
Vị trí Tam Đảo mà người Kinh sinh sống
Với lịch sử định cư trải qua hơn 500 năm, hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam), còn lại số ít người Kinh trong đó có nguồn gốc từ một vài địa phương ven biển của Việt Nam di cư đến. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, một con số được coi là rất khiêm tốn nếu so với nhiều dân tộc khác đang cùng sinh sống trên đất nước đông dân nhất thế giới này.
Người Kinh đánh trống trong một lễ hội
Dòng họ Tô là một dòng họ lớn và được xem là có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng các dòng họ người dân tộc Kinh tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung. Họ Tô là một trong 12 dòng họ người Kinh hay còn gọi là người Việt gốc Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam). Nhiều người trong họ Tô đã có công nghiên cứu, bảo tồn và quảng bá các giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống của người Kinh đồng thời cũng là cội nguồn của văn hóa Việt Nam đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn dù cho dân số của người Kinh tại Trung Quốc là rất khiêm tốn nếu so với nhiều cộng đồng dân tộc khác của đất nước này. Trải qua hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, hiện dòng họ Tô cũng như một số dòng họ người Kinh khác không chỉ tập trung sinh sống tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm) mà đã phân tán ra nhiều địa bàn khác quanh khu Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây.
Người Kinh đánh trống trong một lễ hội
Ngôn ngữ
Người Kinh tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay tiếng Việt và sử dụng phổ biến chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương là tiếng Quảng Đông và sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, về ngữ pháp, người Kinh không nói ngược như dân Hán mà vẫn nói xuôi theo lối giao tiếp của người Việt.
Phong tục
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.
Dân tộc Kinh tại Trung Quốc
Ẩm thực
Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn các loài hải sản như cá, tôm, cua. Đặc biệt, họ làm nước mắm từ cá biển để chấm và nêm thức ăn. Những món ăn ưa thích của họ là bánh đa làm bằng bột gạo có rắc vừng nướng trên than hồng mà sách Trung Quốc gọi là phong xuy hỉ (bánh phồng do gió thổi) và bún riêu, bún ốc sách Hán tự ghi là hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.
Tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo đại thừa và Đạo giáo. Ngoài ra họ còn duy trì tục cúng thần linh và tổ tiên.
Người Kinh trong một lễ hội
Sinh hoạt văn hóa
Họ ưa thích lối hát đối đáp giao duyên (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ở miền Bắc Việt Nam bây giờ. Lối hát đúm hát đối này thường được tổ chức vào ngày Tết, ngày Hội. Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và đàn bầu (độc huyền cầm) là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Họ có một kho tàng văn học dân gian truyền khẩu phong phú với ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích… Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.
Y phục và nhạc cụ của người Kinh tại Quảng Tây
Đời sống kinh tế
Người Kinh tại khu vực Tam đảo hoạt động chủ yếu trong các ngành như ngư nghiệp (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, nông nghiệp, dịch vụ du lịch. Ngoài ra, một bộ phận dân cư hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ.
Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da.
Người Việt Nam cho dù ở đâu vẫn là người Việt Nam!
Ngày 26/2/1962 ,Phi công Nguyễn văn Cử lái máy bay khu trục AD-6 ( Skyraider ) ném bom sập cánh phải của Dinh ( Gia dình Ông Ngô Đình Nhu có một cô con gái tử nạn trong vụ này ). Sau đó Dinh bị phá bỏ hoàn toàn để xây mới thành Dinh Độc Lập – nay là Hội Trường Thống Nhất .
Đây là bức ảnh xưa nhất của dinh Norodom. dinh Toàn quyền vừa mới xây dựng xong, khoảng 1875 Palais du Gouverneur Général à Saïgon, Vietnam, circa 1875. Photo by Emile GsellDinh Toàn quyền Norodom (1866)
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. The Cathedral of Saigon 1888Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. The Cathedral of Saigon 1882CHOLON 1888 – The Chinese district of Saigon Chợ Lớn – rạch Bến NghéShips on the port of Saigon 1888 tàu trên sông SG
CHOLON 1888 – A bridge in the Chinese district of Saigon – Cầu Bình Tây phía trước chợ Bình Tây đầu tiên trong CholonThe Saigon River in Vietnam ca 1870Một chiếc thuyền ba lá đang neo đậu trên con lạch. A stream with a sampan 1888A quay with vessels moored in Saigon, Vietnam – 1893 Cột cờ Thủ NgữMột tàu khách nổi tiếng của Pháp tại bến cảng. The French passenger ship S.S. Sydney of Messageries Maritimes Co. in Saigon, Vietnam – 1893La Sainte Enfance par Emile Gsell (ca.1866) Từ năm 1924 tên gọi “Sainte Enfance” của tu viện này đã được đổi thành “Saint Paul”. Tu viện Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam. Hai nữ tu đầu tiên đến Saigon năm 1860, và tòa nhà được xây dựng xong vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn Trường Tộ. Hình trên của Émile Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây xong. Tòa nhà này sau đó vào cuối thế kỷ 19 được thay thế xây lại như còn lại hiện nay (tháp chuông không còn)Tu viện Sainte Enfance do nhà nhiếp ảnh tiên phong của Trung Hoa là Pun Ky ( Tân KỲ ) chụp khoảng năm 1860Cochinchine: Pagode Barbé, maintenant Ecole normale annamite (Environs de Saigon) – Chùa Khải Tường xưaĐây là bức ảnh duy nhất còn lưu giữ được của chùa Khải Tường xưa. Bức ảnh do Emile Gsell chụp trong khỏang từ năm 1871-1874. Những người tìm hiểu lịch sử TP Saigon thời Pháp bắt đầu đánh chiếm rất quan tâm đến ngôi chùa này, là một trong bốn ngôi chùa Pháp chiếm để lập thành “chiến tuyến các ngôi chùa” để tấn công đồn Kỳ Hòa của Nguyễn Tri Phương. Vị trí của nó ngày xưa ở khoảng Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, ngày nay không còn lại một dấu vết nào ngoài tấm ảnh này của Gsell.
Tombeau de l’Evêque d’Adran (1866) Lăng mộ Cha Cả. Photo by Emile GsellCảng Nhà Rồng – Saigon 1866 – Vue de l’Etablissement des Messageries Impériales Photo by Emile GsellVue de Saïgon en 1866 – cột cờ Thủ ngữ Cảng Saigon với cột cờ Thủ Ngữ, lúc này chưa có ngôi nhà lớn của ông Vương Thái (sau này xây ở cạnh tòa nhà giữa hình). Bên trái là rạch Bến Nghé.
Cùng góc chụp, khi đã có khách sạn của ông Wang Tai (các hình dưới chụp năm 1867):
Saigon, Cochin China – Photograph by John Thomson, 1867. – Bức ảnh rất lớn cho thấy rõ nhiều chi tiết Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn ĐạtCảng Sài Gòn xưa
ảnh toàn cảnh Sài Gòn xưa. Hình chụp khi chưa có Maison Wang-tai (tòa nhà sau này là trụ sở Quan Thuế)Bản đồ Saigon 1867, cùng khoảng thời gian với những bức hình của Emile Gsell (1866).. Plan de la ville de Saigon. Cochinchine 1867 Publisher: Imprimerie impériale. Dressée par le service des Ponts et Chaussées, octobre 1867
Chợ Lớn Sài Gòn – Thành Phố người Hoa
Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưaSaigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưaVị trí cây cầu này nay ở trên ĐL Đông Tây. Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưaSaigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưaSaigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa1866 Chinese village panorama – Toàn cảnh đoạn kinh Tàu Hủ chảy qua khu vực phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn Hình ghép 5 tấm ảnh của Emile Gsell chụp cảnh kênh Tàu Hủ đoạn chảy qua phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn năm 1866, cách nay gần 150 năm. Con kinh bên dưới cây cầu ở giữa ảnh ngày nay đã lấp đi thành đường Vạn Kiếp. Nơi cây cầu trong ảnh ngày nay là đầu cầu Chà Và qua kinh Tàu Hủ. Photo by Emile GsellCảnh Thành phố của người Hoa (Chợ Lớn). Hình do nhà nhiếp ảnh Pháp Emile Gsell chụp năm 1866.Chợ Sài Gòn xưa. Chợ Lớn. SAIGON – TRAMWAY de la ROUTE BASSE DE CHOLON ET MARCHE DE SAIGONSaigon 1866 – Photo by John Thomson (BIG PHOTO) – Dãy nhà trên Bến Bạch Đằng ngày nay, phía bên trái là bờ sông Saigon Chưa nhận ra đường nào, nhưng có thể là đường Nguyễn Huệ sau này. Vào thời gian này toàn bộ thành phố đều chưa có điện nên phải thắp sáng buổi tối bằng đèn dầu hỏa. Ngày nay chúng ta khó thể hình dung ra cảnh tối tăm đó như thế nào…Saïgon Circa 1890 – Bức ảnh góc phố Chợ cũ, Rue d’Adran, cách nay hơn 120 năm Góc phố Blvd de la Somme và Rue d’Adran. Nay là góc Hàm Nghi – Hồ Tùng Mậu. Tòa nhà giữa ảnh nay là tiệm Như Lan.Saigon, Cochin China – Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn ĐạtSaigon – Cochin China -1867
Cochin China là gì?
CochinChina hoặc CochinChine, là tên mà người Phương Tây gọi Nam Kỳ ( lúc đó là 20 tỉnh ). Xem nguồn gốc tên gọi Cochin China.
Lăng Cha Cả
Cha Cả tức Giám mục Bá Đa Lộc (Mgr. Pigneau de Béhaine). Mộ ngài trên vùng đất trường ngoại ngữ Dương Minh bây giờ (?)
SAIGON 1867 – Đường đến Lăng Cha cả với hai hàng cây xoài
SAIGON 1867 – Lăng Cha Cả Cây lớn trong hình là cây xoài, có vẻ cũng phải được mấy chục năm rồi…SAIGON 1867 – Mộ Cha Cả
Bộ sưu tập những tấm bản đồ Sài Gòn xưa từ thời Pháp thuộc thế kỷ 19 tới nửa cuối thế kỷ 20.
Bạn đọc có những tấm bản đồ Việt Nam cổ xưa xin vui lòng gửi cho Hinhanhvietnam.com biên tập và chia sẻ ra cộng đồng.
SAIGON CITY MAP – Scale 1:12,500 (First Printing 4-63)BẢN ĐỒ SAIGON 1963. Ấn hành lần thứ nhất tháng 8/63. Royal Australian Survey Corps (RA Svy) in năm 1964.Bản Đồ SAIGON 1963 – INDEX TO STREETS – Bảng chỉ dẫn đường phốBản Đồ SAIGON 1963 – Index to Numbered Buildings – Bảng chỉ dẫn các kiến trúcPLAN DE SAIGON-CHOLON – BẢN ĐỒ SAIGON-CHOLON (1952-1955) Bản đồ này không ghi năm xuất bản, nhưng căn cứ vào tên con đường MARÉCHAL DE LATTRE DE TASSIGNY trên bản đồ thì suy ra bản đồ xuất bản trong khoảng 1952 đến 1955, vì trước 1952 đường Maréchal de Lattre de Tassigny còn là đường Général de Gaulle và trước 1945 là đường MAC MAHON; và sau 1955 thì được đổi tên thành đường CÔNG LÝ (hiện nay là đường NKKN, đoạn từ XVNT đến bến Chương Dương). Hai thành phố Saigon và Cholon khi này đã nhập chung lại và được gọi tên là thành phố Saigon-Cholon, được chia ra thành 6 quận tô các màu khác nhau trên bản đồ. Bản đồ có kích thước 35.6 x 58.5 cm.BẢN ĐỒ SAIGON 1952-1955 (Mặt sau)CHÚ THÍCH BẢN ĐỒ SAIGON 1952-1955SAIGON 1952-1955 – Bản đồ phóng lớn, bề ngang trên 2mQuảng cáo mặt sau BẢN ĐỒ SAIGON 1952-1955Quảng cáo mặt sau BẢN ĐỒ SAIGON 1952-1955Quảng cáo mặt sau BẢN ĐỒ SAIGON 1952-1955Quảng cáo mặt sau BẢN ĐỒ SAIGON 1952-1955Saigon khi này được chia làm 3 quận, tô 3 màu khác nhau trên bản đồCác chú thích của bản đồ được in ở mặt sau. Bản đồ được in tại Miến Điện năm 1946 bởi Đoàn Thám sát không ảnh thuộc Bộ tư lệnh Quân đội Anh tại Miến Điện. Bản đồ này được vẽ căn cứ theo bản đồ của Pháp in tháng 11/1942 và được hiệu chỉnh bằng các không ảnh chụp từ tháng 9 đến tháng 12/1945.
Based on French map dated November 1942. Corrected by No. 2 Ind.Fd.Svy.Coy.R.I.R. from air photographs taken in Sep. to Dec. 1945 Scale [ca. 1:10 560]. 6 in. = 1 mile (E 106?40’/N 10?45′) Size: 44 x 52 cm. Printed by 61 Rep. Group, March 1946 Survey H.Q. Burma Command
On verso: Sketch map of Saigon town and aerodrome. Scale 1:42 inches = 1 mile. Includes indexes of streets and buildings. Prime meridian: Greenwich.
Bản đồ SAIGON 1946 (Mặt sau) . Kết thúc Đệ nhị thế chiến, quân đội Anh thuộc phe đồng minh được giao nhiệm vụ đến VN giải giáp quân Nhật từ Vĩ tuyến 16 trở xuống phía Nam, trong đó có TP Saigon. Có lẽ bản đồ này đã được Bộ chỉ huy quân đội Anh tại Miến Điện in ra nhằm phục vụ nhiệm vụ này.Bản đồ thật đẹp ở trên được in trong sách hướng dẫn du lịch của tác giả Madrolle xuất bản năm 1926 tại Paris
CHÚ THÍCH TRÊN BẢN ĐỒ SAIGON 1926 của MADROLLE:
1. Nhà đoan (quan thuế) – B3 2. Bưu điện và điện tín – C2 3. Nhà Thờ Lớn – C2 4. Viện Bảo Tàng – C2 5. Nhà hát – B2 6. Thư viện – B2 7. Vườn Bách Thảo – D3 8. Công viên Maurice Long (Vườn Tao Đàn) – B1 10. Dinh Toàn quyền – B1 11. Dinh Thống đốc Nam Kỳ – B2 12. Tòa Thị chính – B2 13. Dinh Đại tướng (chỉ huy quân đội) – C2 14. Dinh Thủy sư chỉ huy Hải quân – C3 15. Tòa Giám mục – C1 16. Tòa án (pháp đình) – B2 17. Chợ Trung tâm – B2 23. Bệnh viện nhà binh – C2 24. Trại lính – D2 25. Sở Chỉ huy Pháo binh – C3 26. Xưởng công binh (Ba Son) – D3
Bản đồ Sàigòn thời Pháp thuộc Saigon Map during French colonial timeSaigon Map – 1947 . SÀI GÒN VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯAChú thích vị trí các tòa nhà trên bản đồ Sài Gòn 1947Map of Saigon 1961 (sheet 2)Map of Saigon 1961 (sheet 1) source: library.ttu.edu Texas Tech University LibrariesChú thích tên đường và các công trình kiến trúc của Bản đồ SAIGON 1962 nằm ở mặt sau của Bản đồ này.Chú thích tên đường và các công trình kiến trúc Bản Đồ SAIGON 1962Bản đồ SAIGON 1968 Giúp định vị địa điểm những kiến trúc xưaChú Thích Bản Đồ SAIGON 1968Plan Cadastral de la Ville de Saigon – 1896SAIGON MAP 1920. vị trí mấy công trình tại Saigon khoảng thập niên 1920
Chú thích từ tấm bản đồ Sài Gòn xuaw ( 1920)
1.Quảng trường Nhà thờ lớn – Tượng Giám mục Adran 2.Bưu điện và Điện tín 3.Thuế đặc biệt 4.Trụ sở cảnh sát 5.Kho bạc 6.Thư viện 7.Hiến binh quốc gia 8.Xưởng thuốc súng 9.Dinh Thống đốc Nam Kỳ 10.Tòa thị chính 11.Tổng Chưởng lý (Kiểm sát trưởng) 12.Nha nội vụ (Dinh Thượng thơ nội vụ) 13.Dinh Chỉ huy lữ đoàn 14.Khách sạn Continental 15.Khách sạn Nations 16.Tượng Francis Garnier 17.Nhà hát TP 18.Dinh chỉ huy trưởng Hải quân 19.Khách sạn Pháp quốc 20.Courtinat (cửa hàng đồ nội thất) góc Tự Do-Thái Lập Thành (nay là góc Đồng Khởi-Đông Du)
21.Khách sạn Victoria
22.Khách sạn Univers 23.Tòa lãnh sự Nga 24.Tòa hòa giải 25.Tòa lãnh sự Bỉ 26.Đền Ấn giáo (Bà-la-môn – brahmanism) 27.Chợ trung tâm cũ – Tượng Gambetta 28.Sở di trú 29.Ngân hàng Đông Dươg 30.Ngân hàng Hồng Kông- Thượng Hải 31.Tòa lãnh sự Nhật 32. Sở quan thuế 33.Hãng tàu đường sông
Cochinchine française. Plan cadastral de la ville de Saigon 18821963 SAIGON MAP – PRESS PHOTOBản đồ Saigon 1923 với các thông tin phân tích Tháng 2/1944 Xem bản đồ này thấy một chi tiết rất thú vị; tuyến đường sắt bắc nam cũ là đường Trần Quang Diệu với Trần Huy Liệu.Plan de la ville de Saigon 1896 – Bản đồ rất lớn cho thấy vị trí các công trình của Sài Gòn xưa
Chú Thích BẢN ĐỒ TP SAIGON 1896 Tỷ lệ 1/14.000
1. Palais du Gouvernement Général (Dinh Toàn quyền) 2. Chateau d’eau et puits hydrostatique (Tháp nước và giếng thủy tĩnh) 3. Evêché (Tòa Giám mục) 4. Collège Indigène (Trung học bản xứ) 5. Cathédrale (Nhà thờ) 6. Mess des Officiers (Nhà ăn của Sĩ quan) 7. Imprimerie Nationale (Nhà in của chánh phủ) 8. Trésor (Kho bạc) 9. Recette spéciale (Thu thuế đặc biệt) 10. Enregistrement et Domaines (Sở Trước bạ và Nhà đất) 11. Cadastre (Sở Địa chánh) 12. Gendarmerie (Sở Hiến binh) 13. Prison Centrale (Nhà tù Trung tâm) 14. Palais du Lieutenant Gouverneur (Dinh Phó Toàn quyền/Phó soái) 15. Hôtel du Procureur Général (Dinh Tổng biện lý/Tổng kiểm sát trưởng) 16. Service des Travaux publics (Sở Công chánh) 17. Télégraphe et Postes (Sở Điện tín và Bưu điện) 18. Hôtel du Sécretaire général (Dinh Tổng thư ký Tòa Thị sảnh) 19. Direction de l’Intérieur (Dinh Đổng lý Nội vụ) 20. Institution municipale de filles (Trường nữ sinh TP ?) 21. Magasins et Ateliers des Travaux publics (Kho và Xưởng Công chánh) 22. – id — du Service local (Kho và Xưởng địa phương) 23. – id — à pétrole (Kho và Xưởng dầu hỏa) 24. Poste de Police (Đồn cảnh sát) 25. Direction du Port de Commerce (Nha Giám đốc Thương cảng) 26. Immigration (Sở Di trú) 27. Mairie (Tòa Thị chính) 28. Postes de Police (Đồn cảnh sát) 29. Douane (Sở Thuế quan) 30. Palais de Justice (Tòa án) 31. Hôtel du commandant supérieur des troops (Dinh chỉ huy trưởng quân đội) 32. Justice de Paix (Tòa Hòa giải) 33. Gare du chemin de fer (Ga đường sắt) 34. Manufacture d’opium (Xưởng sản xuất thuốc phiện) 35. Hangars de vérification (Douane) Kho kiểm hàng hóa (Sở Quan thuế) 36. Mât de signaux (Cột tín hiệu) 37. Cure de la Cathédrale (Cha xứ nhà thờ) 38. Hôtel Ollivier 39. Banque de l’Indo-Chine (Ngân hàng Đông Dương) 40. Commissaire Central de Police (Cảnh sát trưởng)
……………………………………………………………………………. Trên một số con đường trong bản đồ này có vẽ những dấu chấm, trông khá lạ và không thấy có chú thích gì, nhưng có thể đoán đó là vị trí của các cây trồng trên đường phố để lấy bóng mát.
National Geographic Map of Saigon, 1965 bản đồ Sài Gòn 1965 trên tạp chí National GeographicBan do sài gòn 1928. plan de saigon 1928
CHÚ THÍCH: 1. Nhà đoan (quan thuế) – B3 2. Bưu điện và điện tín – C2 3. Nhà Thờ Lớn – C2 4. Viện Bảo Tàng – C2 5. Nhà hát – B2 6. Thư viện – B2 7. Vườn Bách Thảo – D3 8. Công viên Maurice Long (Vườn Tao Đàn) – B1 10. Dinh Toàn quyền – B1 11. Dinh Thống đốc Nam Kỳ – B2 12. Tòa Thị chính – B2 13. Dinh Đại tướng (Quan sáu) – C2 14. Dinh Thủy sư Chỉ huy Hải quân – C3 15. Tòa Giám mục – C1 16. Tòa án (pháp đình) – B2 17. Chợ Trung tâm – B2 23. Bệnh viện nhà binh – C2 24. Trại lính – D2 25. Sở Chỉ huy Pháo binh – C3 26. Xưởng công binh (Ba Son) – D3
Map of Saigon in 1963, with useful addresses, offered by Hotel CaravelleBản đồ Sài Gòn 1795 Giải thích các địa danh trên Bản đồ Bản đồ thành phố Sài Gòn, được bố phòng vào năm 1790 bởi Đại tá Victor Olivier. Theo bản đồ lớn do kỹ sư hoàng gia Brun vẽ năm 1795 theo lệnh nhà vua, nay thu nhỏ lại bởi J.M. Dayot, 1799
Bản đồ Sài Gòn 1795
Giải thích các địa danh trên Bản đồ
Bản đồ thành phố Sài Gòn, được bố phòng vào năm 1790 bởi Đại tá Victor Olivier. Theo bản đồ lớn do kỹ sư hoàng gia Brun vẽ năm 1795 theo lệnh nhà vua, nay thu nhỏ lại bởi J.M. Dayot, 1799
A. Palais du Roi = Hoàng cung. B. Palais de la Reine = Mẫu hậu cung. C. Palais des Princes = Cung các hoàng tử. D. Hôpital = Bệnh viện. E. Magasin des Troupes = Kho quân đội. F. Arsenal et Forges = Kho võ khí và lò rèn. G. Charonnerie = Nhà xe. H. Magasin à Poudre = Kho thuốc súng. I. Corps de Caserne = Trại lính. K. Place d’Arme = Võ sảnh. L. Remises pour les pièces de Campagne = Trại tân tạo võ khí hành quân. M. Mât de Pavillon = Cột cờ. N. Maison de l’Evêque = Dinh Tân xá dành cho Bá Đa Lộc (Pierre Foseph Georges Pigneau de Béhaine – Giám mục người Pháp). O. La Monnoye = Trường đúc tiền. P. Magasin aux Vivres = Kho lương thực (Kho Quản Thảo). Q. Bazard = Phố chợ (Đa Kao). R. Chantiers de Construction = Xưởng Chu sư. S. Bassin = Bể sửa chữa tàu thuyền. T. Briqueterie = Lò gạch ngói. U. Pagode = Chùa (Cây Mai). V. Bazard chinois = Chợ người Hoa (Chợ Lớn).
Bản đồ này do Le Brun, một sĩ quan người Pháp của Nguyễn Ánh vẽ năm 1795. Theo bản đồ này ta thấy một hệ thống đường bộ có hình bàn cờ và nhiều cơ sở hành chính, sản xuất, tín ngưỡng nằm bao quanh thành Bát Quái. Đó là kho hàng thực phẩm (P), xưởng gạch (T), xưởng đúc tiền (O), xưởng đóng thuyền (R), chùa Cây Mai (U), Chợ Lớn (V). Ngoài khu dân cư ở Sài Gòn còn có khu dân cư khá quan trọng ở Chợ Lớn hiện nay. Quận 4 đông đúc hiện nay vẫn còn là vùng đất hoang sơ, có một đoạn đường đất nối rạch Bến Nghé đến đồn Vàm Cỏ.
Ngôi thành Bát Quái được xây dựng năm 1790, bản đồ Le Brun cho thấy một con kênh khá dài nối liền thành Gia Định với sông Sài Gòn, tạo sự thuận lợi cho giao thông và vận tải bằng đường thủy vào trong thành
Saigon Map_1928 – (hướng Bắc vẽ về phía bên phải)1968 Map of Saigon’s Tan Son Nhut AirportSaigon1966 – Map showing location of 3rd Field HospitalMap of Saigon and Ky Hoa – Plan de Saigon avant la conquête Chiến tuyến Chí Hòa của Nguyễn Tri Phương (màu cam) và chiến tuyến các ngôi chùa của quân Pháp (màu vàng)Bản đồ địa chánh Qui hoạch SAIGON năm 1882 Plan cadastral de la ville de Saigon 1882 – CEFURDS Map CollectionPlan de Saigon en 1867Bản đồ SG 9 năm sau ngày bị Pháp chiếm (1858), vẫn còn thành Phụng (do Vua Minh Mạng cho xây dựng năm 1936). Nhiều con đường trong khu vực trung tâm vẫn còn là những con kinh được người Pháp đào để lấy đất tôn cao nền thành phố và để thoát nước. Trục đường hơi nằm ngang xuyên qua giữa Thành Phụng là Route Stratégique, sau này là Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai. Trục đường xuyên qua giữa thành Phụng theo chiều đứng là Boulevard de la Citadelle, sau này là Cường Để, nay là Tôn Đức Thắng. Vào năm này Dinh Toàn quyền chưa xây, còn dùng nhà gỗ trong khu vực trường Taberd. Bản đồ 1867 này có ghi vị trí chùa Barbé, nơi trước kia là chùa Khải Tường, bị quân Pháp chiếm làm đồn lính trong trận tấn công đồn Kỳ Hòa năm 1861. Đại úy Barbé là trưởng đồn này, đã bị nghĩa quân VN phục kích giết nên Pháp lấy tên ông để gọi chùa này. Tại khoảng vị trí ngôi chùa này ngày nay là Nhà bảo tàng Chứng tích chiến tranh, góc Lê Quí Đôn- Võ Văn Tần. Trong thời Pháp đường Lê Quí Đôn cũng được đặt tên là rue Barbé. (Chú thích: một số tài liệu, hay bản đồ cũng viết là Barbet, thay vì Barbé, vì phát âm giống nhau).Bản đồ Saigon một năm sau ngày Pháp chiếm SGBản đồ Sài Gòn – Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815Bản-đồ-Sài-gòn-xưaSaigon Map – 1950Saigon Map 1960Ghép chung hai bản đồ SAIGON – BIÊN HÒA (Tỷ lệ 1/50.000)Bản đồ SAIGON (HCMC) 1984 Tỷ lệ 1/50.0001864 Ville et Port de Saigon – Thành phố và Cảng SAIGON, 5 năm sau ngày quân Pháp đánh chiếm SGBản đồ một phần trung tâm SAIGON 1947Bản đồ Saigon 1896 tô thêm màuBản đồ Saigon 1883 với “chiến tuyến các ngôi chùa” (lignes des pagodes) của Pháp năm 1861
Màu hồng là thành Phụng, xây 1836 bị Pháp phá 1858. Màu xanh là mộ Giám mục Adran (GM Pigneau de Béhaine), tức lăng Cha Cả. Màu tím là đồng Mồ mả chạy dài suốt từ SG vào Cholon.
Màu vàng là 4 ngôi chùa bị Pháp chiếm làm đồn lính (sau khi thành Gia Định mất vào tay quân Pháp vào tháng 2-1859), nhằm tạo thành “chiến tuyến các ngôi chùa” (lignes des pagodes) để chuẩn bị tấn công đồn Kỳ Hòa của Nguyễn Tri Phương năm 1861.
Plan de Saigon 1953. Ngày xưa nhiều bản đồ vẽ hướng Bắc nằm về bên phải, không hướng lên trên theo như quy ước ngày nay. Ai chưa quen sẽ thấy khó chịu vì phải ngảnh cổ để xem cho dễ, nhưng xem nhiều bản đồ như vậy rồi dần sẽ quen thuộc…
Cho đến trước thế kỷ 16, Sài Gòn – Gia Định vẫn là miền đất hoang, vô chủ, địa bàn của vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.. Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa … Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quạn trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ ba cơ quan chính quyền này.Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một nhóm người Hoa “phản Thanh phục Minh” tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý vào miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình.. Vùng Nam Bộ được sát nhập vào cương vực Việt Nam.
Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Các công trình kênh đào Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế… được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp, Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel, Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. “Gia Định thành” khi đó được đổi thành “Gia Định kinh”. Tới năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, miền Nam được chia thành 5 trấn. Sáu năm sau, 1808, “Gia Định trấn” lại được đổi thành “Gia Định thành”. Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế..
Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, người Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Theo thiết kế ban đầu, Sài Gòn bao gồm cả khu vực Chợ Lớn. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, chính quyền Pháp quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được thực hiện. Sau hai năm xây dựng và cải tạo, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn thay đổi, Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám độc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục… Lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên.
Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn, khi quân Pháp rút khỏi miền Nam năm 1954 thể theo hiệp định Genève, đại tướng Paul Ely trao dinh Norodom lại cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm . Đúng một tháng sau đó, dinh Norodom được chính thức đổi tên thành Dinh Độc Lập.
Khi chiếm Sài Gòn, người Pháp đã sáng tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sài Gòn 1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sài Gòn của người Pháp. Hiện nay, TP.HCM dù đã tổ chức các cuộc thi những vẫn chưa tìm được một logo chính thức cho thành phố hôm nay.
Nhà báo Việt Nam đầu tiên là một trong 18 người uyên bác nhất thế giới thế kỷ 19 khi thông thạo đến 26 thứ tiếng, nữ nhà báo đầu tiên của Việt Nam là con gái cụ Nguyễn Đình Chiểu, báo chí Việt Nam thực sự thoát thai từ cái nôi của chế độ thuộc địa, sự ra đời của báo chí trùng khít với bước chân xâm lược của người Pháp vào Việt Nam và sau đây Hình ảnh Việt Nam.com xin trích ra một số những cái nhứt mà Admin sưu tầm được trong những ngày qua cũng như lịch sử báo chí Việt Nam phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau với khá nhiều thăng trầm từ giai đoạn 1850 cho tới 1924 , bây giờ chúng ta cùng bắt đầu với tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên nha.
Fb/Sài Gòn Xưa
1.Tờ báo chữ “Quốc Ngữ” đầu tiên
Lịch sử báo chí Việt Nam bắt đầu với sự ra đời của Gia Định báo vào ngày 15/4/1865 tại Sài Gòn. Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ, ban đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là công cụ thông tin của người Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên đăng các công văn, nghị định, thông tư của chính quyền thực dân. Sau này, khi Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục biên khảo, thơ văn, lịch sử… Gia Định báo cũng có góp phần cổ động việc học chữ Quốc ngữ và lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam … Gia Định báo có khổ 25x32cm, giá 0,97 đồng/tờ, phát hành vào thứ 3 hàng tuần, đường D’Adran (Hồ Tùng Mậu ngày nay), một trong những địa chỉ từng in tờ Gia Định báo, những mẩu quảng cáo đầu tiên trên tờ Gia Định báo (và cũng là của báo chí Việt Nam) xuất hiện vào năm 1882, tờ báo kinh tế đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam là tờ Nông Cổ Mín Đàm nghĩa là “uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn”. Đây là tờ báo tiếng Việt do Paul Canavaggio – một chủ đồn điền và thương gia người đảo Corsica, hội viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ làm chủ nhiệm. Chủ bút lần lượt là các ký giả Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt … Nông Cổ Mín Đàm bàn về nông nghiệp và thương nghiệp, phát hành thứ năm hằng tuần tại Sài Gòn bằng chữ quốc ngữ. Số 1 ra ngày 1 tháng 8 năm 1901. Một thời gian sau báo được xuất bản một tuần 3 kì. Sau khi phát hành số ra ngày 4 tháng 11 năm 1921 thì báo bị đình bản, tờ báo này ra đời theo một nghị định của Quan Tổng thống Đông Dương Paul Doumer ban hành tại Sài Gòn ngày 14/2/1901. Ban đầu, trụ sở của tòa soạn đặt ở số 84 đường La Grandière, Sài Gòn. Một thời gian sau, trụ sở thay đổi liên tục, cuối cùng tọa lạc tại số 12 đường Cap St–Jacques, Sài Gòn.
2.Những quảng cáo sách đầu tiên trên tờ Nông Cổ Mín Đàm.
Báo có khổ 20×30 cm, với tổng cộng 8 trang, trong đó các trang giữa đăng các truyện dịch (như Tam quốc chí tục dịch hay một số truyện ngắn khác của Anh, Pháp hoặc Trung Quốc), thơ ca do các cộng tác viên sáng tác, điểm báo châu Âu, hướng dẫn cách thức vệ sinh phòng bệnh hoặc trồng trọt chăn nuôi, thông tin số lượng và giá lúa gạo bán đi các nước, 2 trang cuối dành cho quảng cáo và rao vặt, nhà báo Việt Nam đầu tiên của chúng ta chính là doanh nhân thời đó nhà bác học Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), được coi là “ông tổ nghề báo Việt Nam”. Tên thường gọi của ông là Pétrus Ký, quê ở Vĩnh Thanh, Tân Minh, Vĩnh Long (nay thuộc Bến Tre)…Trương Vĩnh Ký được người đương thời xếp vào danh sách 18 nhà bác học hàng đầu thế giới. Ông thiết tha với nền văn học quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam, ông sáng lập, là tổng biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo), cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác, tượng Trương Vĩnh Ký được đặt gần Nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn, trước năm 1975 từ Đông Dương cho tới ngày thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa ,và sau ngày giải phóng tượng đã được dời đi vào viện bảo tàng
Tờ nhật báo đầu tiên ,gần 4 năm sau khi thành lập, báo Trung Bắc Tân Văn ở miền Bắc tăng tần số phát hành và trở thành tờ nhật báo đầu tiên của Việt Nam, tính từ tháng 1/1919. Trung Bắc Tân Văn do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút..Tờ báo tồn tại đến tháng 4/1941 mới đình bản, ra tổng cộng 7.265 số ,tờ báo trung Bắc Tân Văn là tờ báo ra hàng ngày duy nhất phát hành rộng ở Bắc và Trung Kỳ, tờ báo phụ nữ đầu tiên chính là báo Nữ Giới Chung (tiếng chuông của nữ giới) xuất bản vào thứ Sáu hàng tuần tại Sài Gòn trong năm 1918. Đây là tờ báo đầu tiên chuyên về phụ nữ, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội. Tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Tháng 7/1918, tờ Nữ Giới Chung bị đình bản… Nhà thơ, nhà báo Sương Nguyệt Anh (1864 – 1922) là chủ bút tờ báo này. Bà là con gái thứ tư của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu, tờ báo Tết đặc biệt đầu tiên ,đầu năm 1918, tờ Nam Phong tạp chí với ấn phẩm đặc biệt “Số Tết 1918” trở thành tờ báo Tết đầu tiên, mở màn cho truyền thống làm báo xuân trong làng báo Việt Nam. Đây là ý tưởng của chủ bút trẻ Phạm Quỳnh, khi tờ Nam Phong vừa ra mắt được 6 tháng.
3.Tổng kết
Phóng sự trên báo đầu tiên ,năm 1932, tờ Hà Thành Ngọ Báo đã khởi đăng phóng sự nổi tiếng nhan đề “Tôi kéo xe” của nhà báo Tam Lang (Vũ Đình Chí), mở đầu cho thể loại phóng sự trong làng báo Việt Nam. Viết về thân phận những người phu xe những năm đầu thế kỉ 20, “Tôi kéo xe” đã làm thức tỉnh những người có lương tâm trong xã hội, phóng sự điều tra “Tôi kéo xe” được đăng tải trên “Hà thành ngọ báo” năm 1932. Năm 1935 được in thành sách, để viết phóng sự đầu tiên, nhà báo Tam Lang đã nhiều lần nhập vai người phu xe để hiểu được sự nhọc nhằn, khó khăn của họ, và tờ báo có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam là báo Lao Động, cơ quan thông tin của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, ra đời ngày 14/8/1929, báo Lao Động ban đầu in bằng bản đất sét, trên giấy Đáp Cầu một mặt ráp một mặt nhẵn, khổ 22x30cm, tại ngõ Thông Phong, phố Hàng Bột (Hà Nội). Báo do ông Nguyễn Đức Cảnh làm Tổng biên tập đầu tiên. Đến nay, báo Lao Động vẫn phát triển với 83 năm tồn tại.
Loạt hình rất xưa về nhà máy sản xuất thuốc phiện đầu tiên tại Saigon 1880-1903.
Năm 1881, một nhà máy sản xuất thuốc phiện lớn đã được người Pháp xây dựng ở trung tâm Sài Gòn, vị trí nhà máy ngày nay thuộc khu phố 4 phường Bến Nghé, Q1, TP HCM,
Cổng chính dẫn vào nhà máy. Toàn bộ nhà máy sản xuất thuốc phiện này chiếm diện tích khoảng 1ha trên một khu đất hình chữ nhật, được bao quanh bởi 4 đường phố ,Công nhân bắt đầu làm việc từ 6 giờ sáng, chia làm 2 ca sáng và chiều. Mỗi ngày nhà máy tiêu thụ khoảng 350kg nguyên liệu, gồm thuốc phiện sống, vỏ cây khô và các hóa chất khác nhau.
Đôi dòng về nhà máy
Ít ai biết rằng thời Đông Dương toàn quyền thuộc pháp, mảnh đất Sài Gòn chúng ta từng có một nhà máy chế biến thuốc phiện rất lớn mà sau này thuốc phiện còn được biết tới với cái tên “nàng tiên nâu”, là nhựa được trích ra và chế biến từ quả của cây thuốc phiện (hay cây anh túc).
Vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hầu hết các quốc gia Châu Á và Châu Âu chìm ngập trong làn khói thuốc phiện. Mặc dù biết tác hại của thứ chất gây nghiện này là rất khủng khiếp, song vì lợi nhuận mà chính quyền Pháp vẫn cho phép buôn bán và chế biến thuốc phiện ngay tại mảnh đất Sài Gòn.
Vào những năm 1880, khi lần đầu tiên người Pháp xuất hiện tại Sài Gòn cho tới năm 1861, khi miền Nam nước ta còn nằm dưới quyền bảo hộ của Pháp. Thuốc phiện được sử dụng rất ít ở Sài Gòn, tuy nhiên theo làn sóng Hoa Kiều nhập cư, thuốc phiện dần lan rộng, được sử dụng nhiều hơn, lúc này, những nhà máy chế biến cũng dần xuất hiện ngay giữa trung tâm Sài Gòn. Trong tình cảnh đó, chính quyền thuộc địa Pháp đã quyết định cho phép buôn bán ma túy công khai nhằm thu một khoản thuế khổng lồ, lên tới hàng triệu đồng piastres (đơn vị tiền tệ khi đó ở Đông Dương).
Vị trí của nhà máy chế biến thuốc phiện trên bản đồ Sài Gòn cách đây hơn 100 năm do người Pháp vẽ, theo đó quý vị nhìn trong hình sẽ thấy xí nghiệp sản xuất “Thuốc Phiện” này nằm ở số 74 Rue Paul Blanchy, nay là nhà hàng The Refinery số 74 đường Hai Bà Trưng, gần phía sau Nhà hát Thành phố.
Công xưởng chính, nơi diễn ra các công đoạn quan trọng nhất của việc chế biến thuốc phiện.Ở thời kì này, thuốc phiện được đóng vào từng hộp nhỏ bằng đồng với 5 loại trọng lượng khác nhau: 5g, 10g, 20g, 40g hay 100g tùy theo nhu cầu của người mua.Ngoài ra, các công trình trong khuôn viên nhà máy gồm có công xưởng, văn phòng quản lý, nhà kho, bốt bảo vệ, phòng đóng gói, phòng động cơ hơi nước, phòng thí nghiệm hóa học…,những tòa nhà chính vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay!
.
Nguyên liệu đầu vào của nhà máy này là thuốc phiện thô nhập từ Vân Nam (Trung Quốc) hoặc thuốc phiện Benares (từ Ấn Độ). Phương pháp sản xuất tại đây giống cách chế biến thuốc phiện của người Quảng Đông nhưng có thêm sự trợ giúp của dây chuyền Tây Âu nhằm tăng năng suất, theo đó, một mẻ thuốc phiện sẽ ra lò sau 3 ngày chế biến trong xưởng. Ở thời kì này, thuốc phiện được đóng vào từng hộp nhỏ bằng đồng với 5 loại trọng lượng khác nhau: 5g, 10g, 20g, 40g hay 100g tùy theo nhu cầu của người mua. Trên nắp các hộp thuốc đều có ghi chữ B (Benares) hoặc chữ Y (Vân Nam) tượng trưng cho nguồn gốc xuất xứ của thuốc.
Thời Pháp thuộc, việc sử dụng thuốc phiện rất phố biến trong dân cư người Hoa. Một bộ phận có điều kiện thường hút thuốc phiện ở nhà, trong khi giới bình dân hút tại các “động” nha phiến, có rất nhiều ở Sài Gòn và Chợ Lớn.
Hình Ảnh Việt Nam sưu tầm và chỉnh sửa lại từ trang Fb/ Sài Gòn xưa
THỬ KIỂM KÊ MỨC SỐNG CỦA NGƯỜI ĐÀNG TRONG QUA SỬ LIỆU
Chúng ta cùng xem thử triều đình Đàng Trong mỗi năm chi xài bao nhiêu tiền nhé!
“Phủ biên tạp lục” cho biết, mỗi năm triều đình Nam Hà chi tiêu khoảng từ 364.400 quan tới khoảng 369.400 quan, nếu thiếu khoảng 2-3 vạn thì lấy bạc bù vào. Trong đó, tiền chi cho quân lực (cả chưởng quản lẫn binh sĩ) là 260.000 quan, chi cho việc tế lễ của hai xứ Thuận – Quảng là 1.400 quan, chưa kể lễ tiết yến ẩm, thưởng lạo, tôn tạo công trình. So với tiền thu vào khoảng từ 338.100 quan tới 423.300 quan, vàng thu vào trên dưới 85 hốt, bạc tốt 24-29 hốt, bạc lá 224-228 hốt, bạc con gà khoảng 10.000 đồng ; có năm bạc tốt thu đến 251 hốt, bạc lá 223 hốt. Trong ba năm gần đó, đúc tiền kẽm khoảng 72.396 quan. Như vậy, số tiền chi cho triều đình khoảng chừng 100.000 quan. Mỗi hốt vàng luyện được 9 vạn lá, triều đình dùng để sắm trang sức, có năm ngốn đến 45 hốt, trong khi giá vàng mỗi hốt là 180 quan.
Trước chiến tranh, giá gạo 10 thưng (đủ ăn một tháng) chỉ có 3 tiền, giá một con trâu không quá 10 quan, một con voi giá khoảng 2 hốt bạc. Cau 3 quan 1 tạ, tiêu 12 quan/tạ, các loại thảo mộc trên dưới 10 quan, tê giác 500 quan, yến sào 50 quan, vi cá 40 quan, tôm khô 6 quan, đồi mồi 180 quan, kỳ nam 120 quan/lạng, tơ lụa 3 quan 5 tiền/tấm. Thuế tàu Chiết Giang, Quảng Đông là 3000 quan đến và 300 quan về, tàu Ma Cao (thực ra là Hà Lan), Nhật Bản là 4000 quan đến và 400 quan về, Phi Luật Tân và Xiêm La 2000-200, Đông Ấn Hà Lan (Indonesia) 500-50, Hà Tiên 300-30.
Từ bảng giá này có thể thấy… khoảng cách của xa xỉ phẩm với nhu yếu phẩm. Gạo cho 1 người ăn 1 năm chỉ khoảng gần 4 quan, ngang giá 1 tấm lụa. Đấy là do giá gạo ở Đàng Trong rẻ như cho, “tiền như đất bạc như bùn” nên không thể (và không nên) đem so sánh với nơi khác. Nhưng mà nhìn lại quân số xứ này ước khoảng 2-3 vạn người, trung bình mỗi người cao nhất khoảng 12-13 quan, thấp thì mỗi người 7-8 quan. Kể ra cũng chỉ trên mức sống trung bình tí thôi.