Category: Chứng nhân lịch sử

  • Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Sau Hiệp định Genève chuẩn bị di cư vào Nam, một lượng lớn người dân làm cho Pháp, dân công giáo, những người không thích cộng sản,… đã theo tuyên truyền, hoặc tự nguyện di cư vào Nam.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Bán đồ đạc chuẩn bị di cư vào nam sau khi Hiệp định Genève được công bố

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … những ngày cuối cùng ở Hà Nội

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Việt Minh và Pháp bàn giao bót Hàng Trống

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … bộ đội tiến vào tiếp thu bót Hàng Trống, lúc này đang là Ty Cảnh Sát TP Hà Nội
    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … tiếp thu bót Hàng Trống

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. lễ hạ cờ Tây lần cuối cùng trong thành Hà Nội, phía trước Đoan Môn, chấm dứt hơn 70 năm chiếm đóng thành Hà Nội từ năm 1883 của quân Pháp.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … lễ hạ cờ Tây lần cuối cùng trong thành Hà Nội,

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … lễ hạ cờ Tây lần cuối cùng trong thành Hà Nội,

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. những ngày cuối cùng của Hà Nội, bệnh viện Yersin

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … Tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. … Tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. … Tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … Jul 1954, dân chúng đọc Viet-Nam Presse

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. Jul 1954, dân chúng đọc Viet-Nam Presse

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Bộ đội Việt Minh tiến vào tiếp quản Hà Nội

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Bộ đội Việt Minh tiến vào tiếp quản Hà Nội

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Bộ đội Việt Minh tiến vào tiếp quản Hà Nội

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Bộ đội Việt Minh tiến vào tiếp quản Hà Nội

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …di cư vào nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. di cư vào nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Chuẩn bị lên tầu vào nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Chuẩn bị lên tầu vào nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … mẹ và hai con, tay xách nách mang, trên đường vào miền Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … tìm đường vào miền Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. ra phi trường Gia Lâm vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ,,,, ra phi trường Gia Lâm

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … phi trường Gia Lâm

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … … phi trường Gia Lâm

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … Hải Phòng

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … lên tầu vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. di cư vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … lên tầu vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … lên tầu vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … lên tầu vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. lên tầu vào Nam

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … Hải Phòng 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Operation Passage to Freedom, October 1954 đi tìm tự do

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    … người ở lại

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. người ở lại

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Hải Phòng 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …. Hải Phòng 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    USS Bayfield di cư vào Nam 3 September 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    USS Bayfield di cư vào Nam 3 September 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    USS Bayfield di cư vào Nam 3 September 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    …..

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    người công giáo bỏ đi khỏi vùng do CS kiểm soát giữa đêm đen nở nụ cười khi thuyền của họ cặp được vào tàu đổ bộ của Pháp mà sẽ đưa họ đến nơi tự do. Khoảng năm 1954.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    các thủy thủ Pháp giúp người tỵ nạn VN kéo thuyền của họ vào tàu đổ bộ của Hải quân ở Vạn Lý. Mặc cho những cảnh báo và hạn chế bởi công an của Việt Minh, hàng ngàn người công giáo trong vùng do CS kiểm soát đã lũ lượt di cư vào miền Nam để tái định cư ở các vùng không theo chế độ Cộng sản.

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    ….

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Hà Nội 1954 sau Hiệp định Genève. Xin làm nô lệ cho Nga, Tầu Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt. (thơ Tố Hữu)

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Man looking at posters of new leaders shortly before Communist takeover of city from the French. Oct 1954

    Hà Nội 1954 (Góc nhìn của người di cư vào Nam)

    Hà Nội 1954 sau Hiệp định Genève. Xin làm nô lệ cho Nga, Tầu Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt. (thơ Tố Hữu)

    Theo 36Phophuong

  • Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Thư sinh Hà Nội, ông quan Bắc Kỳ, em bé và quả mít…. là những chân dung sống động của người Việt Nam được in trên bưu thiếp cuối thế kỷ 19, đầu 20…

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Hai người đàn ông An Nam.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Chàng thư sinh Hà Nội .

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Ông quan xứ Bắc Kỳ và bà vợ.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Hai phú ông An Nam.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Quý bà ngồi ghế.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Cậu bé người Hoa hút thuốc bằng ống điếu.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Những người phụ nữ bán đồ ăn vỉa hè.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Những người phụ nữ bán đồ ăn vỉa hè.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Hau cậu bé bốc vác ngồi chơi với những đồng xu.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Cụ bà bán dứa.

    Lạ mắt với ảnh người Việt trên những tấm bưu thiếp trăm tuổi

    Hàng cháo vỉa hè Sài Gòn .
  • Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900
    Những hình ảnh dưới đây được giới thiệu trong một ấn phẩm có tiêu đề “Bắc Bộ 1900” (Le Tonkin eu 1900) được xuất bản nhân triển lãm thế giới tại Paris, Pháp vào năm 1900.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Người cửu vạn đẩy xe cút kít chở gạo.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Xe kéo tay là phương tiện kiếm cơm của rất nhiều người dân nghèo thời thuộc địa.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Một quầy hàng bán đồ gốm.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Nghề lấy ráy tai dạo.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Cậu bé bán khoai.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Chở lợn bằng xe cút kít.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Cụ ông bán chiếu cói.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Sản xuất và bày bán dép ngay tại chỗ.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Sản xuất đồ gia dụng bằng tre.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Nghề làm ô lọng.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Những người cửu vạn lúc rỗi việc.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Nghề khảm trai mỹ nghệ.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Một nghệ nhân thêu cờ phướn.

    Ảnh hiếm : Kế sinh nhai trên phố ở Việt Nam năm 1900

    Những tấm da đang được căng tại một xưởng thuộc da trâu bò.

    Theo KIẾN THỨC / BELLE INDOCHINE

  • Ảnh đời thường phụ nữ “ba đảm đang” thời bao cấp

    Ảnh đời thường phụ nữ “ba đảm đang” thời bao cấp

    Ảnh đời thường phụ nữ
    Có những bộ sưu tập ảnh đáng quý về nếp sống đời thường ở Hà Nội, Việt Nam đã truyền bá cho vẻ đẹp con người và cảnh sắc, góp phần thúc đẩy du lịch phát triển và hiểu về con người trong quá khứ nhất là với chị em phụ nữ Hà Nội, Việt Nam.

     

    Bộ ảnh thú vị của Nhiếp ảnh gia John Vink chụp HN năm 1990

     

    Ảnh đời thường phụ nữ
    Bán xổ số ở khu phố cổ Hà Nội.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Cô giáo dẫn các em học sinh qua đường ở Hà Nội.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Các nữ công nhân trong nhà máy sản xuất xe đạp.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Miệt mài chăm chút sản phẩm.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Miệt mài chăm chút sản phẩm.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Người bán hoa quả rong.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Buổi diễn tập trong rạp xiếc
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Trường xiếc ở Hà Nội.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Múa truyền thống
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Múa truyền thống

     

     

    Những ngày tháng lịch sử năm 1979, nhiếp ảnh gia Thomas Billhardt đã chụp lại những bức ảnh về không khí chiến đấu và sinh hoạt của người dân Việt Nam

     

    Ảnh đời thường phụ nữ

    Các nữ quân nhân tham gia cuộc mít-tinh.

    Ảnh đời thường phụ nữ

    Tập quân sự ngay trên đường phố.

     

    Ảnh đời thường phụ nữ

    Hai em bé được mẹ chở bằng xe đạp trên phố.

     

     

    Nhiếp ảnh gia Đức Hans-Peter Grumpe thực hiện ở 20 tỉnh thành thuộc cả 3 miền Việt Nam từ năm 1991 – 1993

     

    Ảnh đời thường phụ nữ
    Bếp điện được bày bán la liệt trên vỉa hè cùng nhiều vật dụng gia đình khác.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Một cửa hàng bán đồ điện.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Cửa hàng này bán đủ loại thuốc lá, từ hàng nội cho đến hàng ngoại.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Bánh, mứt, kẹo các loại là mặt hàng chính của nhiều cửa hàng trên phố Hàng Buồm.
    Ảnh đời thường phụ nữ
    Bia 333 (bên trái) và những hộp bánh hình tròn (giữa ảnh) là những hàng hóa quen thuộc vẫn còn được bán cho đến ngày nay

     

    Ảnh đời thường phụ nữ

    Những người bán hàng đếm tiền sau một ngày buôn bán.

  • Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Vũ nữ người Chăm, thiếu nữ Giáy, đàn ông Lào… là những bức chân dung đặc sắc về các dân tộc ở Đông Dương trước thập niên 1930. Các vũ công Lào, nét duyên phụ nữ Ê Đê… là hình ảnh khó quên về các cô gái dân tộc thiểu số Đông Dương 80 năm trước.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Cụ ông người dân tộc Kinh ở Hà Đông. Hình ảnh được giới thiệu trong một ấn phẩm về các dân tộc ở Đông Dương, xuất bản ở Pháp năm 1931, được đăng tải lại trên trang Belleindochine.free.fr.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ người Mán Cốc.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ người Mán Tiền.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ người Mán Tả Pán.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ dân tộc Xê Đăng.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ dân tộc Giáy.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ Thái Trắng.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ Thái Trắng.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Nam giới và phụ nữ Thái Đen.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Vũ công người Lào.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Một người Hoa trong trang phục sân khấu.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Các vũ công người Chăm.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ Chăm.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ dân tộc Mường ở Thanh Hóa.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Hai người đàn ông Ê Đê ở Buôn Ma Thuột. Hình ảnh được giới thiệu trong một ấn phẩm về các dân tộc ở Đông Dương, xuất bản ở Pháp năm 1931, được đăng tải lại trên trang Belleindochine.free.fr.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ Ê Đê (trái) và phụ nữ Gia Rai (phải).

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Người Châu Mạ

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Vị trưởng bản người Châu Mạ.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Các vũ công Lào ở Viêng Chăn.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Vũ công người dân tộc Lủ.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ dân tộc Thái ở Sầm Nưa, Lào

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Một nhóm phụ nữ Thái ở Sầm Nưa.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Một nhóm phụ nữ Thái ở Sầm Nưa.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Nam giới dân tộc H’Mông.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Nam giới dân tộc H’Mông.

    Ảnh chân dung các dân tộc Đông Dương ngày xưa

    Phụ nữ người Mán Tiền.

  • Từ cuộc đời Nguyễn Tri Phương nhìn về một thời đoạn lịch sử

    Từ cuộc đời Nguyễn Tri Phương nhìn về một thời đoạn lịch sử

    Võ tướng Nguyễn Tri Phương đã dành cả đời ông trong công cuộc giữ yên bờ cõi và chống ngoại xâm trải qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Khi Hà thành thất thủ vào tay quân Pháp, ông đã nhịn đói cho đến chết.

    Cuốn sách Nguyễn Tri Phương nằm trong tủ sách “Góc nhìn sử Việt” do NXB Hồng Đức và Alphabooks ấn hành đã phần nào làm sống lại cuộc đời vị võ tướng anh dũng này.

    Hơn thế, thông qua cuộc đời Nguyễn Tri Phương, người đọc đã thấy lại một thời đoạn đầy biến động của nước ta trước ngoại bang phương Tây. Sách được viết bởi Phan Trần Chúc và Lê Quế in lần đầu năm 1956. Lần tái bản này, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Sơn đã hiệu đính dựa trên bản in tại Sài Gòn 1956.

    Võ tướng Nguyễn Tri Phương sinh tại Phủ Thừa Thiên, theo Đại Nam nhất thống chí, ngay từ nhỏ ông đã có chí lớn. Ông không ưa việc khoa cử mà chỉ đọc những cuốn sách có ứng dụng để giúp đời. Thời kỳ đầu triều vua Minh Mạng, nhà vua có chiếu kén những người hiền tài giúp nước. Nguyễn Tri Phương đã bước vào con đường hoạn lộ bằng một chức nhỏ mọn ở địa phương.

    Từ cuộc đời Nguyễn Tri Phương nhìn về một thời đoạn lịch sử
    Cuốn sách “Nguyễn Tri Phương”

    Làm nha lại không bao lâu, ở địa phương ông xẩy ra một vụ án rất bí mật. Quan huyện giao cho ông tra xét và ông đã khám phá ra được vụ án ấy. Đồng thời, ông đã thảo một tờ bẩm rất khúc chiết rõ ràng trình lên quan trên. Vụ án ông khám phá được báo lên tỉnh rồi vào cung vua. Tình cờ, vua Minh Mạng đọc được tờ bẩm và nhận ra tài năng của ông. Vua cho dẫn ông vào triều để từ đó cuộc đời Nguyễn Tri Phương thăng tiến rất nhanh trong triều đình.

    Cuộc đời ông gắn liền với chiến chinh trận mạc trải qua khắp ba miền của đất nước. Khi biên thùy phía Nam bị ngoại bang xâm lấn, chính ông đã làm chủ tướng đánh giặc và buộc giặc đầu hàng. Trong nhiều năm cầm quân ở vùng sông nước Cửu Long, ông luôn chủ trương thu phục lòng người hơn là dùng vũ lực.

    Nguyễn Tri Phương nói: “Công thành không bằng công tâm, toàn sự tức là toàn thắng”. Công cuộc “công tâm” của ông đã giúp các tỉnh vùng biên phía Nam yên bình không còn bóng giặc đánh phá nữa.

    Số phận của Nguyễn Tri Phương gắn liền với số phận của đất nước. Khi phương Tây chế tạo ra súng đạn thì nhiều quốc gia ở châu Á phải chịu khuất phục vì gươm giáo, cung tên không thể địch lại. Việt Nam nằm trong số các quốc gia bị phương Tây đánh chiếm bằng sức mạnh khoa học kỹ thuật như thế.

    Nguyễn Tri Phương đã nhận thấy điều này nên trình với vua đề nghị canh tân đất nước. Thế nhưng, nhiều quan lại trong triều đình đã chống lại ông nhằm hưởng nhàn cho tấm thân.

    Kết cục, Hà thành đã thất thủ khi Nguyễn Tri Phương được giao trọng trách bảo vệ. Ông đã nhịn ăn cho đến chết với câu nói bất hủ: “Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã”.

    Tủ sách “Góc nhìn sử Việt” viết về các danh nhân Việt Nam lừng danh một thời với lòng yêu nước nồng nàn và bất khuất trước kẻ thù. Việc đọc và học sử Việt đang là mối lo cấp bách trong toàn xã hội khi mà môn sử trong nhà trường ít được học trò yêu mến.

    Cuốn Nguyễn Tri Phương của Phan Trần Chúc và Lê Quế được viết theo loại “lịch sử ký sự” nên dễ đọc và hấp dẫn, lại được nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn hiệu đính rõ ràng, thiết nghĩ nên được phổ biến rộng trong các gia đình để lớp người trẻ biết sâu hơn về lớp cha ông.

    Theo Net Cố Đô.

  • Nghề giúp việc xưa và tên gọi con Sen, anh Xe, U già…

    Nghề giúp việc xưa và tên gọi con Sen, anh Xe, U già…

    Năm 1401, trong cải cách chế độ của Hồ Quý Ly có một quy định đó là hạn chế số lượng gia nô trong nhà quan. Gia nô là kẻ làm các công việc từ đồng áng đến việc nhà và gần như không có quyền tự do. Khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, đô thị này xuất hiện nghề giúp việc cho các gia đình người Pháp và cả những gia đình người Việt ở tầng lớp trung lưu, từ đó xuất hiện những cái tên “anh xe”, “con sen”, “u già”…

    Có xe kéo tay thì phải có người kéo và cái tên “anh xe” có từ khi phương tiện này xuất hiện ở Hà Nội. Cuốn “Ở Bắc Kỳ, ghi chép và kỷ niệm” (Au Tonkin notes et souvenirs – xuất bản tại Hà Nội năm 1925) của Công sứ Bonnal (1883 – 1885) kể rằng, trong một chuyến đi Nhật, ông này đem về hai chiếc xe tay hiệu Djinnrickshas (pousse pousse – xe tay kéo), một chiếc để dùng còn chiếc kia tặng Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Hữu Độ. Sau đó, thuộc cấp của ông sai người làm giống như thế để họ dùng. Những người Châu Âu ở Hà Nội cũng bắt chước làm theo để dùng riêng. Đó là chiếc xe hòm có sàn để ngồi cao hơn trục bánh xe, bánh xe bằng sắt, lúc đó đường sá Hà Nội vẫn lổn nhổn gạch đá, duy nhất chỉ có phố Paul Berts (Tràng Tiền ngày nay) trải đá dăm nên rất dễ lật. Sự xuất hiện của xe tay dẫn đến một sự kiện quan trọng, Công sứ Bonnal đã cho phá bỏ các cổng cùng những cánh cửa vuông nặng trịch mà người Hoa dựng lên ở các phố họ sinh sống nhằm ngăn cách với khu người Việt để xe tay có thể ra vào dễ dàng mà không sợ tai nạn. Nhu cầu dùng xe tay tăng cao làm viên quan thuế đã nghỉ hưu là Leneven nhập xe từ Nhật và Hồng Công về cho thuê và trở nên giàu có. Năm 1890, Công ty Verneuil et Gravereand ở phố Rialan (nay là Phan Chu Trinh) đã sản xuất cả xe bánh sắt và xe bánh cao su, loại bánh sắt được bán về các tỉnh lân cận.
    Nghề giúp việc xưa
    Phu kéo xe tay ở Hà Nội đầu thế kỷ XIX.
    Việc mở mang các tuyến đường giao thông được chính quyền thành phố làm khá nhanh, tính đến ngày 1-1-1902, Hà Nội có 52km đường, trong đó hơn 10km đã rải đá và đây là yếu tố làm tăng nhanh chóng số lượng xe kéo. Theo văn bản thông qua quyết toán thuế do Công sứ Baille ký ngày 10-1-1902, số tiền thuế xe tay ở Hà Nội thu được năm 1897 là 26.530 đồng, năm 1898 là 32.165 đồng, năm 1899 là 40.450 đồng và năm 1901 là 43.370 đồng. Trước đó ngày 15-3-1892, Trú sứ Chavassieeux ký mức thuế một năm cho một chiếc xe tay là 60 đồng, như vậy năm 1897 có 442 xe, đến năm 1901, Hà Nội có tới 728 chiếc và như thế cũng có từng ấy người phu xe.Còn con sen có lẽ là phiên âm từ jeune servante trong tiếng Pháp nghĩa là người hầu trẻ, người giúp việc. Cũng như anh xe, con sen có từ cuối thế kỷ XIX, phần lớn trong số đó xuất thân từ nông thôn, ra thành phố tìm việc nhưng vì không có nghề nên họ chỉ có thể làm các công việc giản đơn trong đó có giúp việc gia đình. Sau khi quân Cờ Đen bị giải giáp phải rời khỏi Hà Nội, rồi Hà Nội (thời kỳ này rất hẹp, phía nam giới hạn đến phố Tràng Thi, phía tây chỉ đến đầu Thụy Khuê hiện nay và phía bắc và đông là đê sông Hồng) trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, thì nhiều công chức, sĩ quan Pháp đưa vợ con đến Hà Nội sinh sống. Vì chưa quen ở xứ thuộc địa nên họ cần có người giúp việc như đi chợ, khâu vá, bồi bếp… để cuộc sống của họ thuận tiện hơn; trong khi đó, dân ngoại ô, dân các tỉnh không có ruộng lại cần việc làm và thế là cung cầu gặp nhau, dẫn đến nghề giúp việc xuất hiện. Thế nhưng nhiều gia đình người Pháp vẫn chưa tin tưởng vào người mình sẽ thuê nên họ đã nhờ các cha cố ở Nhà thờ Lớn giới thiệu. Tuy nhiên ngôn ngữ vẫn là rào cản lớn vì thế cố Ân (tức cha cố Dronét) dùng ngôi trường 2 tầng ở phố Nhà Chung mở lớp dạy tiếng Pháp miễn phí cho họ.

    Thương mại phát triển, nhiều người Việt trở nên giàu có và họ cũng có nhu cầu thuê người giúp việc, thế nên đầu thế kỷ XX, số người giúp việc tăng lên đáng kể, nhiều gia đình mua xe tay và nuôi anh xe khỏe mạnh trong nhà để đưa ông chủ, bà chủ đi chơi, công việc, đưa con cái họ đi học… Cũng như con sen, chị khâu, u già… họ ở dãy nhà ngang của gia chủ và được trả lương theo tháng. Vào cuối những năm 1920, nhu cầu tìm việc ngoài thành phố ngày càng tăng vì Hà Nội được mở rộng về phía nam và phía tây nên đã xuất hiện những phố đưa người và một trong những phố đó là phố Mới (nay là Hàng Chiếu). Từ mờ sáng cho đến chiều tối, con phố này luôn có người tìm việc đứng chờ trong đó có chị em muốn “bán sữa” (vì con họ sau khi sinh đã chết). Xã hội văn minh nên nhiều phụ nữ cả Tây lẫn ta muốn giữ bộ ngực sau khi sinh con đã thuê họ về làm vú nuôi. Thậm chí nhiều gia đình Hoa kiều nuôi họ để hằng ngày vắt sữa cho cha mẹ già uống.

    Con sen, anh xe, u già, chị khâu… xuất hiện trên rất nhiều bài báo xuất bản trước năm 1954. Từ chuyện họ bị coi khinh hay lấy cắp tiền bạc đến chuyện chủ nhà có tình ý… Những con sen khép nép ở quê nhưng ra đô thị sẵn sàng đồng ý ngủ với đàn ông ở phòng trọ, anh xe có vợ ở quê song sẵn sàng bỏ tiền thuê nhà cho các cô bán hàng rong để thi thoảng chạy qua “cải thiện”… tất cả đều phơi trên mặt báo. Phóng sự dài kỳ “Cơm thầy, cơm cô” của nhà văn Vũ Trọng Phụng tuy không nêu cụ thể phố nào nhưng ai cũng biết ông viết về các quán cơm đồng thời là nhà trọ ở phố Hàng Chiếu. Phóng sự khiến những ai quan tâm đến gia phong, lễ giáo phải lo lắng bởi sự xuống cấp trong lối sống đô thị của chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến. Sự tha hóa đạo đức không chỉ có trong giới làm ăn, buôn bán mà còn có cả ở tầng lớp người giúp việc. Do kẻ đi ở ăn cắp của chủ rồi bỏ trốn khiến cảnh sát cũng khó mà truy tìm, nên từ năm 1935 có một người tên là Vy ở 87B phố Hàng Chiếu đã có sáng kiến bắt con sen, phu xe phải chụp ảnh, khai tên tuổi, quê quán và phải điểm chỉ vào. Năm 1936 có hàng chục người làm nghề “đưa người” ở phố Hàng Chiếu.

    Không chỉ xuất hiện trên các trang báo, họ còn là đề tài của các nhà văn, truyện ngắn “Thanh! Dạ” cho thấy sự khốn khổ của con sen, không biết nghe ai và nếu nghe người này thì bị người khác trong gia đình ấy hành hạ. Truyện “Quyền chủ” phản ánh chủ có sai thì họ vẫn đúng vì họ là chủ, truyện “Tờ giấy 100” kể chuyện vợ một anh giàu có đổ cho người ở lấy cắp tiền. Nhưng thương cảm nhất chính là truyện “Người ngựa ngựa người” cũng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, thân phận anh xe cũng là thân phận của kẻ đi ở, lại gặp gái mãi dâm cùng cảnh ngộ bế tắc không lối thoát. Trong hồi ký của Nguyễn Bắc (Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội 1954-1976) “Thành phố bị chiếm”, ông kể về bà vú ở chợ Hàng Da đã cứu thoát ông khỏi mật thám vào năm 1952.

    Không phải ai làm anh xe, con sen, u già, vú em… đều có cuộc sống bất hạnh, nhờ có mức lương ổn định nhiều người đã cải thiện được cuộc sống của gia đình họ ở quê. Thậm chí có nhiều người từ đi ở đã trở thành giàu có nhờ may mắn, ví dụ như chủ hiệu nem Sài Gòn Tế Mỹ ở đầu phố Hàng Gai xuất thân từ nhà quê ra Hà Nội làm thuê và đi ở cho một hiệu nem đầu tiên ở phố Hàng Quạt do một người vợ Tây góa chồng mở. Một thời gian sau bà này bị liệt, anh này chăm sóc tận tình nên bà ta nhận làm con nuôi rồi nhường cửa hàng cho. Hay từ là người dọn hàng ở chợ Đồng Xuân, một người đàn ông ở Phú Thượng (nay thuộc quận Tây Hồ) đã trở nên giàu có nhờ may mắn và ý chí đã sở hữu cả khách sạn và quán ăn lớn ở phố Hàng Trống.

    Sau năm 1954, chế độ mới coi việc nuôi người làm trong nhà là giai cấp bóc lột nên đã cho họ về quê.

    Tuy nhiên, đến thời kỳ đổi mới thì mọi chuyện đã khác, quan niệm về người giúp việc không còn nặng nề như thời bao cấp. Các gia đình có điều kiện nhưng neo người đã thuê người ở nông thôn giúp việc cho gia đình. Năm 1994, VTV phát sóng bộ phim truyền hình dài tập “Oshin” của Nhật, phim kể về sự vươn lên của một cô gái tên là Oshin từ đi ở trở thành bà chủ và thế là từ đó xuất hiện cái tên “ô sin” dân gian gọi chung những người giúp việc nhà. Và cũng như trước năm 1954, nghề giúp việc thời nay cũng có biết bao nhiêu chuyện bi hài, hay dở khó mà kể hết…

    Ngọc Tiến
    Hà Nội Mới
  • Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy

    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy

    Chiến tranh Việt Nam, những hình ảnh ghi lại một thời bom đạn đã lấy đi xương máu của biết bao người con đất Việt. Những bức hình được chia sẻ trên mạng xã hội sau đây có thể cho bạn một cái nhìn ở góc độ khác về lịch sử. Trong sự đau thương và khốc liệt của chiến tranh, đâu đó vẫn hiện lên tình người ấm áp.

    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Các chiến sĩ tự vệ Hà Nội cứu vớt phi công John S. McCain ở Hồ Trúc Bạch – (Ảnh: Internet)
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Nữ du kích băng bó vết thương cho một lính Mỹ. (Ảnh: Internet)
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Bác sĩ khám bệnh thường kỳ cho tù binh phi công Mỹ tại trại giam. (Ảnh: thông qua soha.vn)
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Lời nhắn viết trên áo trấn thủ của một lính Mỹ, thể hiện sự ám ảnh của anh ta trước mức độ ác liệt của chiến trường Khe Sanh: “Cảnh báo: Làm lính thủy đánh bộ ở Khe Sanh là một trải nghiệm có hại cho sức khỏe”. (Ảnh: thông qua dantri.com.vn)

    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy

     

    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
    Những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam mà bạn có thể chưa bao giờ nhìn thấy
  • Cuộc sống “cực khổ” của các Hoàng tử nhà Nguyễn

    Cuộc sống “cực khổ” của các Hoàng tử nhà Nguyễn

    Cuộc sống “cực khổ” của các Hoàng tử nhà Nguyễn

    Xem thêm: Các vị vua chúa nhà Nguyễn

    Trong truyện hay phim Trung Quốc, các hoàng tử, vương gia thường là các nhân vật tự do tự tại, tiêu dao phóng túng. Nhưng sự thật lúc nào cũng phũ phàng, từ ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ta có thể thấy các hoàng tử, ít nhất là hoàng tử Việt Nam, phải học tập rèn luyện “cực khổ” không thua gì người thường cả.

    Thái tử Bảo Long
    Thái tử Bảo Long

    Khi được tám tuổi, các hoàng tử sẽ bắt đầu học Khai tâm bảo giám và sách Tiểu học. Tiểu học là sách dùng cho các trò nhỏ, nội dung dạy về các nghi tiết như rảy nước, quét tước, thưa gửi, lui tới, trau dồi đạo đức cho thiếu nhi.

    Khi đã thông thạo Tiểu học, các hoàng tử sẽ phải học Tứ thư rồi tới Ngũ kinh và Chư sử. Vua Minh Mạng đã miêu tả cách dạy như sau:

    “Ngày chẵn, dạy truyện hay kinh, trước giảng chính văn rồi đến bản chú (chỉ những lời chú giải của các tiên nho, chủ yếu là của Chu Hi đời Tống) để cho sáng nghĩa ra. Về Kinh, Truyện, giảng đến thiên nào, trước hãy giảng chính văn, phải đọc thật thuộc lòng để biết rút lấy ý nghĩa chính tâm, tu thân và đạo lý hiếu, đễ, trung, tín.

    Ngày lẻ, dạy Chư sử cốt phân tích cho rõ ý nghĩa, không cần bắt đọc thuộc lòng. Khi giảng dạy, nếu có nghĩa gì ngờ, thì về Tứ thư, có Đại toàn phụ lục, về Ngũ kinh, có Ngũ kinh khâm định; về Chư sử, có Ngự phê cương giám ; tra cứu có các sách Tự điển. Hết thảy đều do Nội các phát sách công ra để dùng tra cứu.”

    Các hoàng tử dưới 11 tuổi thì học ở tư gia, còn từ 11 tuổi trở lên sẽ học tập ở bốn sở học trong Tử Cấm Thành: Minh Thiện đường, Dưỡng chính đường, Tập thiện đường và Quảng học đường. Vua Minh Mạng còn sai Nội các truyền họp trưởng sử 4 Quảng đường, tuyên chỉ rằng:

    “Lũ ngươi có trách nhiệm phụ đạo hoàng tử, nên khuyên bảo các hoàng tử chăm chỉ học hành, không được chơi đùa và nuôi gà chọi, chó săn, làm những việc vô ích, nếu sau khi học hỏi nghỉ ngơi, muốn chơi vui chốc lát, chỉ cho nuôi cá chậu 3, 5 con, còn ngoài ra đều không được, trái lệnh này tuy lỗi ở hoàng tử, nhưng lũ ngươi cũng có lỗi.”

    Thế nhưng, các trưởng sử dù sao vẫn là hạ thần, không đủ quyền để chấn chỉnh các hoàng tử:

    “Lại thấy Quảng Oai công là Quân có tính kiêu hoang, đặc mệnh Hàn lâm trực giảng là Nguyễn Công Vị riêng sung giảng quan Công phủ, hằng ngày đến dẫn bảo. Vị tâu nói: “Quảng Oai công chuyên chơi đùa mà lười học, sợ một mình thần không thể làm cho nên được”. Vua hỏi rằng: “Không có Nguyễn Khoa Thường là trưởng sử ở đấy à” ? Vị đáp rằng: “Trưởng sử đối với hoàng đệ thấy thì lạy, gọi thì dạ, còn sợ gì mà học”. Vua nói rằng: “Về phận trên dưới thì vậy nhưng còn sự giúp đỡ khuyên bảo thì không thể làm hết chức trách sao ?”.”

    Băn khoăn như vậy, nên vua còn định thêm vào ngày 6, 16, 26, buổi chiều khi đồng hồ cát rỏ đến đợt 6, các hoàng tử đều vào hầu ở điện Quang Minh và đem theo sách học tập, chờ xem vua có hỏi. Vua lại dụ các hoàng tử rằng:

    “Đến giờ theo lệ định, khi các con vào chầu phải dâng trình sách vở giảng tập để ta hỏi thử. Chẳng qua chỉ lấy đó làm chương trình hạn định. Các con càng phải xét lại ở mình lấy sách làm thầy trọng tình hữu ái, bỏ ý riêng tư không một việc nào, không một ngày nào không phải là học. Ngày sau con lên nối ngôi thì được có dân, được có người, các con làm thân vương, cũng lấy trung hiếu giữ trọn tiếng tốt, cái gì chẳng phải bởi học mà ra?”.

    Tuy thế, nhà vua vẫn rất ân cần với các con:

    “Trẫm đối với hoàng tử tuy lòng từ ái tự nhiên mà khi đến hầu riêng thì chưa từng lộ ra sắc mặt. Đến như khoá trình giảng học thì rất nghiêm, các hoàng tử không dám xin nghỉ. Nhưng nay tiết thu đông giao tiếp, khí rét khó chịu, các hoàng tử tuổi còn thơ ấu, nếu cứ đi học thì chịu sao được. Song ý ấy không nên cho biết, hoặc đến nhu nhơ lười biếng. Ngươi nên theo ý ta khẽ bảo bọn phụ đạo rằng từ sau phàm khi rét buốt mưa nhiều, có thể sai tán thiện và bạn độc chia nhau đến phủ mà khai giảng. Các hoàng tử cũng phải xuống ngồi chiếu dưới nghe giảng, không được cho là ở nhà tư mà bỏ lễ.”

    Khi đến lớp học của các hoàng tử, khung cảnh sẽ như sau:

    “Chính giữa nhà đặt một án sách, đặt vị ngồi giảng ở phía tây, 2 viên phụ đạo cùng một chiếu, 2 viên tán thiện cùng một chiếu, 4 viên bạn độc cùng một chiếu, đều ngoảnh về hướng đông. Đặt vị ngồi nghe giảng ở phía đông, các hoàng tử mỗi người một chiếu, phía trước đặt một kỷ sách, đều ngoảnh về hướng tây, chiếu nhất ở dưới vị phụ đạo.

    Ngày thường, buổi sớm đồng hồ chuyển lần thứ 1, từ phụ đạo trở xuống đều đến ; chuyển lần thứ 2, các hoàng tử lần lượt đến, tán thiện và bạn độc đều đứng dậy. Các hoàng tử ngồi yên, tán thiện và bạn độc lại ngồi. Các hoàng tử gấp sách đọc bài học hôm trước, xong thì phụ đạo khai giảng. Các tán thiện và bạn độc hiệp đồng dẫn bảo rõ ràng. Giờ tỵ giảng xong, các hoàng tử đứng dậy. Tán thiện và bạn độc đều đứng dậy. Các hoàng tử vái chào phụ đạo, xin lui ; phụ đạo chắp tay đáp lễ. Các hoàng tử về phủ. Từ phụ đạo trở xuống đều lui. Giờ thân lại đều đến, hỏi các điều khó ; xong lại đều lui, tiết thứ tiến lui như trước.”

    Ai vắng mặt ngày nào đều bị ghi lại, mỗi tháng ngày 6, 16 và 26 các trưởng sử sẽ nộp sổ nhật kí cho Văn thư phòng để xét ai nghỉ nhiều. Tuy bị ghi tên như thế nhưng nhiều hoàng tử vẫn chán học ham chơi, để bị phạt nặng, như trong sử chép:

    “Nay sớ tâu những người từ trước đến nay chăm chỉ học tập, không hề gián đoạn, chỉ có một mình hoàng thân Miên Ký mà thôi; còn những người khác, từ tháng giêng khai giảng đến nay, hoặc được 40-50 ngày, hoặc được 20-30 ngày, thậm chí có người bỏ hết không đến học bưởi nào […] Về chăm học không bỏ như hoàng thân Miên Ký thưởng cho 1 đồng tiền song long hạng lớn để khuyến khích người khác. Học được 40-50 ngày và 20-30 ngày như […] đáng nên phân biệt xử phạt. Nhưng lần này hãy tạm cho truyền chỉ quở trách. Học được hơn 10 ngày như […] bốn người ấy đều phải phạt 3 tháng lương. Đi học chỉ được 4-5 ngày như […] đều phải phạt 6 tháng lương. Còn như không đi học buổi nào như […] đều phải phạt một năm lương. Lũ Trưởng sử quản gia ở các phủ đệ không biết lấy lời nói thẳng can ngăn, lại chẳng biết đem việc tố giác, thực là ngồi yên ăn không. Lũ ấy đều giao bộ Lễ xử trí. Còn các giảng quan, cũng nên bàn đến. Lần này tạm hãy cho miễn xét hỏi. Nếu lại nhận suông cho xong việc, phụ sự ủy thác của ta […]”

    Và cũng có lúc các hoàng tử đi học nhưng vui đùa quá trớn dẫn đến chuyện như sau:

    “Lần này Hải Ninh quận công Miên Tăng mới được tuyên phong, mở tiệc ngay ở Quảng Học đường. Lúc ấy nhiều người xem trò chơi, gạt đẩy cũng không giãn ra, Tòng Hóa quận công Miên Trữ chợt nói đùa một câu “Đóng cửa lại, bắt làm cỏ”. Vì thế mọi người đều chạy xô ra, có đứa trẻ con tên Thành ngã xuống bị người xéo què. Xét ra, Quảng Học đường là nơi đọc sách cho các hoàng thân, mà lại bày trò chơi khiến người đến xem tụ họp đông như thế đã là chẳng nên; huống chi Miên Trữ lại không biết cẩn thận, bày chuyện nói đùa, đến nỗi mọi người sợ hãi bỏ chạy, từ câu nói đùa thành chuyện uy hiếp. Vậy Miên Trữ phạt lương 1 năm, Miên Tăng phạt lương 6 tháng, lại phải giao 40 lạng bạc cho thân nhân tên Thành để tỏ rõ sự răn đe.”

    Khung cảnh lễ bế giảng và khai giảng thì như sau:

    “Hằng năm, cuối tháng chạp, đến ngày phong ấn thì nghỉ giảng. Sáng sớm hôm ấy, phụ đạo trở xuống mặc áo bổ phục (áo có bổ tử) ngồi ở bản vị phía tây. Các hoàng tử mặc áo bổ phục lần lượt đến. Phụ đạo vẫn cứ ngồi. Hai viên tán thiện ra đứng trên thềm phía tây, bốn viên bạn độc ra đứng dưới thềm phía tây, đều ngoảnh hướng đông. Các hoàng tử ở trên thềm gian chính giữa, hướng vào án lạy 2 lạy. Phụ đạo đứng lên nhận lễ, vẫn ở bản vị làm lễ đáp tạ 1 lạy, lễ xong đứng ngoảnh về phía đông. Các hoàng tử lui ra đứng trên thềm phía đông, hướng về phía tây. Tán thiện và bạn độc ở trên và ở dưới thềm phía tây bước xuống, hướng vào các hoàng tử làm lễ 1 vái. Các hoàng tử vái đáp. Lễ xong, vẫn đều chiếu bản vị ở đông tây mà ngồi, khoản tiếp một lần rồi lui. Sau ngày khai ấn sang năm, Khâm thiên giám chọn ngày tốt, tâu xin khai giảng. Ngày ấy gặp nhau, lễ tiết đều theo như trước.”

    Có một câu chuyện về ngày khai giảng của các hoàng tử rằng:

    “Đến ngày khai giảng vào bái, vua dụ các hoàng tử, hoàng đệ rằng : “Nay đã đặt chức sư bảo, các ngươi đều phải chăm chỉ học tập, ngày tháng tiến tới dần lên, cho thành đức nghiệp, nếu không được thế sẽ phải quở mắng”. Giảng quan, vốn là Cần Chính điện đại học sĩ Ngô Đình Giới nhân tâu rằng: “Thần bất tài mà được dự ngôi tây tịch(chỗ ngồi của thầy dạy các hoàng tử), xin ban giáo hình (thứ hình cụ của thày dạy học, tức là cái roi) cho thần”. Vua bèn trao cho cái roi.”

    Không chỉ học kinh thư, các hoàng tử còn phải học về việc của triều đình cũng như cưỡi ngựa, bắn cung. Hàng tháng vào ngày 17, các hoàng tử từ 14 tuổi trở lên phải vào hầu Thái hậu ở cung Từ Thọ. Ngày 1,11 và 21 thì buổi sáng vào chầu ở điện Cần Chính, xem vua và các quan đại thần bàn việc. Buổi chiều, các hoàng tử tập cưỡi ngựa dưới sự giám sát của các thị vệ viện Thượng Tứ. Tuy vậy, vẫn có hoàng tử ham chơi để rồi bị phạt nặng:

    “Hoàng tử Miên Phú cùng với lũ hạ nhân cưỡi ngựa diễn tập. Đến trước trại quân Thần cơ, ngựa tên Hoàng Văn Vân gặp người đàn bà già là Hà Thị Điểm, không kịp tránh xa, bị ngựa giày xéo mà chết. Ta xem sớ tâu, vô cùng buồn giận. […] Vậy cho lột bỏ mũ áo hoàng tử của Miên Phú, xóa bỏ lương bổng hàng năm, phải đóng cửa tự xét mình, không được ra ngoài một bước, không được dự vào hàng hoàng tử, chỉ gọi tên Phú mà thôi. […]”

    Mặc dù ca dao có câu “Con vua thì lại làm vua” nhưng thực ra việc được phong tước vị cao hay thấp cũng còn tùy thuộc vào sự phấn đấu của mỗi người, như vua Thiệu Trị từng dụ:

    “Năm nay gặp năm ta thọ 40 tuổi, nên đã sai các hoàng tử, hoàng đệ chưa được phong tước là 10 người đến trước sân hỏi, có 7 người ứng chế được. Vậy hoàng tử Hồng Y tấn phong làm Kiến Thụy công, Hồng Hưu làm Gia Hưng công, Hồng Phó làm Thái Quốc công, Miên Tẩu làm Phong Quốc công, Hồng Tố làm Hoằng Trị quận công, Miên Tăng làm Hải Ninh quận công, Miên Lâm làm Hoài Đức quận công. Miên Sạ, Miên Ngộ học thức không thông, thơ mất niêm luật, truyền chỉ thân sức, Miên Thái tuổi đã nhiều lại chẳng biết tu tính, chỉ quen chơi bời, chẳng tập lễ độ, chẳng thích thi thư, chữ viết không thành, văn lại phạm húy, phạt 2 năm lương. Các sư bảo Lê Đăng Doanh, Hồ Văn Nghĩa công tội bù trừ. Những tên tán thiện, bạn độc cho các hoàng tử ứng chế được, cùng những tên giảng tập cho các hoàng đệ đều thưởng mỗi người thêm một cấp. Những tên giảng tập cho Miên Thái, giáng hai cấp.”

    Ngoại trừ những cơ hội đặc biệt như vậy, thì lệ thường phàm hoàng tử đến 15 tuổi thì bộ Lễ tâu xin phong tước, đợi vua thân xét hạch hoàng tử ấy nếu quả là ngày càng tôn kính đạo nghĩa thì lập tức cho làm lễ tấn phong tước công. Nếu hoàng tử ấy đức nghiệp chưa sáng tỏ nhưng mọi sự đều đúng khuôn phép thì hãy đình phong 1 lần, đợi 5 năm sau lại bộ Lễ lại làm sớ xin tâu.

    Sau khi được phong tước, các hoàng tử sẽ dọn ra ngoài Tử Cấm Thành, ở phủ đệ riêng. Tuy nhiên, không phải là ở phủ đệ thì các hoàng tử muốn làm gì thì làm:

    “Hoàng tử Miên Trữ mới ra ở riêng, có lấy thiếp mà không tâu lên vua, vốn là không hợp, vậy phạt lương 3 tháng để răn đe.”

    “Hôm qua nghe trong kinh thành có tiếng thanh la và tiếng trống, sai người xét hỏi, thì là phủ hoàng tử Miên Thẩm diễn tuồng. Trong số lính thuộc phủ Miên Thẩm thì ra có 17 tên hơi biết nghề múa hát, hôm ấy y sai diễn để làm vui. Các hoàng tử học tập có thừa thời gian nên lấy thơ văn làm vui, không được gần lũ tiểu nhân diễn tập âm nhạc. Vậy phạt Miên Thẩm hai năm lương, đình việc chầu hầu 3 tháng để tỏ sự răn đe.”

    “Hàm Thuận quận công Miên Thủ chứa nuôi phường tuồng. Thử nghĩ lời Thiếp Mông nói rằng: “Không được thường thường say rượu múa hát trong nhà”. Vậy lẽ ra nên lập tức theo lệ phạt Miên Thẩm nặng hơn. Nhưng nay Miên Thủ đã đem ngay lũ phạm tội giải đến tra xét, và tự nhận tội, vậy là còn biết hổ thẹn, xử nhẹ phạt một năm lương để tỏ răn sợ.”

    Sao, các bạn còn nghĩ làm hoàng tử là tiêu dao tự tại hay không? Hay là “trách nhiệm đi kèm với quyền lợi”?

    Theo Le Hoang Anh

  • Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Những cuộc tình chớp nhoáng của lính Mỹ với gái điếm Việt (chúng tôi xin phép được tường lại theo đúng lời của họ) thường bắt đầu tại quán bar do quân đội bảo kê. Sau màn làm quen bằng bia rượu, họ sẽ đưa các cô gái về khách sạn hoặc về nhà trọ…
    Có vẻ họ rất thích kiểu phụ nữ đã đi qua nhiều đổ vỡ, điều đó càng thấy rõ khi được nghe về những hồi ức, những thú nhận về mẫu người đàn bà mà bản thân họ cảm thấy lôi cuốn đến phát sợ ở VietNam xưa.
    Kiểu đàn bà trầm tính, không theo một cách bẩm sinh, mà là một con người đã từng thất tình, hận tình, bạc tình rồi từ bỏ dần mà trở thành hai màu đen trắng mộc mạc. Đen trắng là cái màu ai cũng mặc được, bởi vì ở cái sắc đẹp nhất của hắc bạch, chúng chỉ giống với sự cô đọng, còn lại của một người đã có nhiều và cũng đã phải đi qua nhiều.
    Họ đi qua nhau không hẳn là người tình của nhau, sự ái ân-nhục dục nhất thời. Mà còn là sự đồng cảm, về những mất mát tình cảm phải trải qua trong buổi thời chiến hoạn ly.

    Trong cuộc chiến tranh Miền Nam Việt Nam,số liệu thống kê được gần chín mươi ngàn phụ nữ đã phục vụ cho các dịch vụ giải khuây của quân đội Mỹ.
    Đầu năm 1965, quân Mỹ có mặt ở miền Nam lên đến 167.000 người và viện trợ tròm trèm con số 200 triệu USD. Kinh tế dựa vào viện trợ chiến tranh trở nên phồn thịnh bất ngờ kéo theo hàng loạt hệ lụy. Đặc biệt phát triển và nhanh chóng trở thành phễu hút đô-la của lính Mỹ chính là các snackbar và nghề mại dâm Sài Gòn .
    Kính mời các bạn xem bộ ảnh về gái điếm xưa kia ở VietNam.

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975


    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975


    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cô gái trong điệu múa sexy.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Thú vui tiêu khiển của binh lính Mỹ.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Nhát chổi cực mạnh của Ủy ban Quân quản sau ngày 30.4.1975 xem như chấm hết một thời văn hóa sex của miền Nam.
    Trong hình là những cô gái vấn tóc kĩ càng để chờ những vị khách phương Tây cuối ngày đến bar họ
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Vẻ đẹp của một cô gái Việt Nam
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chiến tranh Việt Nam vẫn không làm thay đổi bản chất của quân đội Mỹ.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Hình ảnh về cuộc hẹn của một lính Mỹ trên bãi biển đẹp của Việt Nam.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một ban nhạc rock ở Biên Hoà thời tạm chiếm
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ dễ dàng tìm được tình nhân là các cô gái Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn, không có gia đình.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Hay nhẹ hơn một ít là kiểu mặc ngắn ngủn
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Họ ăn vận sexy,khiêu gợi để mua vui
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Những người phụ nữ trở thành đồ chơi của quân đội Mỹ.
    Năm 1974, khi Mỹ đã rút quân, một tạp chí khiêu dâm “made in Vietnam” ra đời. Hình sex được thu gom bởi một tay đầu nậu là L.T.H. – ông trùm ngành in ấn – được chế bản, in offset ở Chợ Lớn rồi đóng thùng chuyển đi… Hong Kong.
    Sau đó, qua kênh của một sĩ quan cấp tướng, tạp chí này lại được chuyển về Sài Gòn bằng đường hàng không.
    Lý do của việc chuyển ấn phẩm sex một cách lòng vòng như thế chỉ vì Hoàng Đức Nhã – ông trùm thông tin tuyên truyền ở chế độ Việt Nam Cộng hòa – không bằng lòng và tuyên bố không chấp nhận thứ đồi trụy đó lại có xuất xứ ở miền Nam.
    Tuy nhiên, những vũ nữ sexy nức tiếng Sài Gòn thuở ấy đều có mặt trong tạp chí với những album “trời đỡ” thì việc né tránh của tổng trưởng họ Hoàng xem như thừa
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Các cô chiêu đãi viên thi nhau đi chụp hình sex 100% để tiếp thị. Phong trào chụp hình sex theo kiểu dung tục và có tính thương mại xuất hiện ở miền Nam như thế.
    Thoạt đầu, dù nhân viên được gọi bằng cụm mỹ từ “chiêu đãi viên” là mũi tẹt, da vàng thuần túy, nhưng ảnh sexy tiếp thị vẫn xài hàng nhập bởi các cô người mẫu của Penthouse, Playboy, Lui
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Năm 1975, Mỹ rút quân hoàn toàn khỏi Nam Việt Nam trên những “chiếc trực thăng cuối cùng”. “Người Mỹ ra đi, nhưng đồng đô la ở lại”, truyền thông Pháp chiêm nghiệm. Ai đó vẫn tìm cách show hàng không vì nghệ thuật đâu, chủ yếu vì tiền xanh thôi.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Các tác giả phương Tây cho rằng dịch vụ thoát y là cung xuất hiện đáp ứng nhu cầu thanh toán được của các cụm quân viễn chinh. Vẫn theo Richard West, người Mỹ nhận thấy phụ nữ Việt “vụ lợi và có khuynh hướng thương mại (mercenary and commercially minded)”.
    Tác giả Paul Ham kể “một vũ nữ ‘hàng ngoại’ (exotic) đến ‘khoe hàng’ (strutted her stuff) trên sân khấu ở trại lính Úc (ở Việt Nam). Đột nhiên, cô gái Việt nhỏ nhắn này giật bỏ cái xu chiêng, cưỡi lên vai một cảnh sát chiến đấu to như bò mộng, ngả người ra đằng sau hắn, và bắt đầu làm tình giả vờ với cái cổ của tay MP này… Đám đông lính tráng sôi lên, chồm lên phía sàn diễn, để rồi bị cảnh sát chiến đấu và ‘các cha tuyên uý giận dữ’ chặn đứng”.
    Mới biết một tập thể, từng được dạy dỗ cả về tình dục học và kỹ năng sống, vẫn phải được canh giữ về phần xác, bởi cảnh sát vũ trang, và phần hồn, bởi các linh mục khổ hạnh. Nhưng đám đông lính tráng vẫn “nóng máy”, đến mức súng đạn đã nhiều lần nổ trong các sô diễn này. Truyền thông phương Tây cho hay diễn viên Cathy Wayne đã thiệt mạng trong một vụ như vậy ngay trên sàn diễn.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Bên bờ sông, rạp Majestic và khách sạn Continental, công trình rập khuôn theo thềm lục địa (Continental Shelf), vẫn còn khét mùi của mốt “nhái” theo Pháp (faux – French) đã suy tàn. Chúng là sân chơi của trác táng thâu đêm, với vài xen có thể mua nổi cả một bạn nhảy tango. Tình dục, á phiện, cờ bạc, nhảy đầm và rock’n roll được xài dữ, theo phong cách Hoàng đế Xê za. ‘Tiệc tùng, yến ẩm, hội hè liên miên’, một nữ y tá người Úc thốt lên, ‘cả Sài Gòn như đều ngấu nghiến những thời khắc mông muội giát vàng của cái thành phố hoang dâm vô độ này, dù vẫn cảm nhận được rằng ngày tận diệt (apocalypse) đã cận kề’.
    Được bộ máy chiến tranh của Mỹ tài trợ, mọi thứ thú vui đã xả láng đến mức khản giọng. Nam Việt Nam đã có một quá khứ đủ hùng hậu để làm hài lòng ông chủ Mỹ theo cung cách chợ đen, với hối lộ, đút lót là luật chơi phổ biến
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Dịch vụ giải trí, theo các tác gia phương tây, là điểm nhấn của hoạt động kinh doanh ở miền Nam thời tạm chiếm. Nhưng nó còn là sự vỡ oà về nếm trải lạc thú theo kiểu yến tiệc trong nguy nan của cả một số người Việt, như chiêm nghiệm cảm giác mạnh một cách “sành điệu”.
    Cuốn “Cuộc chiến của Australia ở Việt Nam” (Vietnam The Australian war, NXB Happer Collins, 815 trang), tác giả Paul Ham đã dành cả một chương mang tên “R&R” (rest and relaxation) để nói về nghỉ ngơi – giải trí của quân đội viễn chinh phe Mỹ tại Nam Việt Nam. Sách có đoạn viết về Sài Gòn những năm cuối thập kỷ 60: “Bên những đại lộ lớn, rợp bóng những hàng cây, cánh nhà giàu Việt Nam mở những tiệc tùng phô phang, đàng điếm, với sò huyết, rượu Pháp, gan ngỗng (foie gras), và trứng cá ngập bàn, trong khi dân đen chui rúc trong những ổ chuột dựng từ vỏ hộp Coke đập bẹt, trệu trạo nắm cơm chim
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Nhưng tìm gạch nối cho hai phong cách ăn chơi Pháp và Mỹ đâu có thiếu. Chẳng hạn, các quán ba có nhảy go – go khá phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Đây là điệu nhảy à gogo tiếng Pháp, có nghĩa là (chơi) hết mình, thoải mái (abudance, galore). Vũ nữ có khi mặc hai mảnh, thậm chí một mảnh (topless).
    Theo báo Tiền tuyến, Sài Gòn 11/12/1969 nửa triệu lính Mỹ, như trên trời rớt xuống, tiêu tới 30 triệu USD/tháng (tính trượt giá – khảng hơn 200 triệu USD hôm nay). Đây là hiện tượng được các cơ cấu đánh giá thời cuộc của chính quyền Sài Gòn cho là đã làm “thay đổi bộ mặt xã hội miền Nam”, khi một bộ phận dân cư làm “dịch vụ” tại những nơi quân đội nước ngoài trú đóng kiếm tiền “dễ dàng” hơn .
    Trong những thay đổi lớn nhất chắc phải kể đến nhân sinh quan. Từ nay, sắc đẹp, kể cả nhờ đồng tiền (mỹ viện), là “tư bản”, xác thịt là hàng hoá. Khoe xác thịt là quảng cáo, là show hàng. Rải rác trong lưu trữ của Mỹ là các tin, ảnh về “thoát y phục vụ binh lính Mỹ” thời tạm chiếm.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Sau sự kiện này, diễn viên điện ảnh Kiều Chinh (được thể hiện mặc áo dài dân tộc trên Playboy) nói rằng cô ta đã giận dữ khi thấy ảnh mình xuất hiện cùng trang với các phụ nữ (nước khác) không mặc quần áo. Cùng kỳ với hàng ngàn phụ nữ Việt làm gái mại dâm cho lính Mỹ, Playboy đã không thể thuyết phục được một diễn viên, một người mẫu, hoặc một nữ thư ký người Việt nào thoát y. Người Việt bảo thủ về trang phục đến mức đề xuất làm trễ cổ áo dài xuống một inch sẽ làm nổ ra một cuộc tranh luận tương đương với tranh cãi ở phương Tây về áo tắm không có nửa trên (topless swim – suit)… Các tranh luận vẫn tiếp tục, nhưng (tới năm 1974), vẫn chưa hề có đề xuất rằng người Việt sẽ chuyển sang mặc các trang phục phương tây”.
    Tuy nhiên, chỉ thế hệ tới lúc đó đã trưởng thành có cơ đứng vững. Từ năm 1965 chính quyền VNCH cho phép các giải trí trường kinh doanh nghề mại dâm. Nghề tú bà, ma cô từng hình thành từ thời quân đội viễn chinh Pháp, nay công khai phát triển.
    Cùng với sự xuất hiện của đồng đô la, lan tràn các quán rượu kiểu Mỹ, hộp đêm, nhà chứa, phòng tắm hơi… Tại đây công khai trao đổi xác thịt, kể cả kiểu đồng tính, mãi xoá đi những điệu vũ thướt tha và chuyện tình “dị chủng” vụng trộm, hoa lá cành kiểu Pháp, tự truyện Continenetal Saigon (xuất bản 1976) của chủ cũ của Hôtel Cotinental đổi phận thành nhà văn Phillippe Franchini, than thở.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    [1 ẢNH PROMOTION TRONG CHIẾN DỊCH QUẢNG CÁO BÁN HOA NĂM XƯA]
    Thách thức đầu tiên về một hình tượng “nuy”, nhưng kiểu Tây, có thể là Đấu xảo (Triển lãm thuộc địa) năm 1902. Theo tác giả Jean Ajalbert trong Những định mệnh của Đông Dương (Les destinées de l’Indochine, xuất bản 1911), trong gian Mỹ thuật nước Pháp, đã có cả đám người đứng ngẩn ra, hoặc ngượng ngùng che miệng cười trước tấm hình khoả thân, “Người Annam xem ra còn chưa biết tất cả những gì là cơ thể phụ nữ…”. Thời đó, phụ nữ Việt mặc áo cài tới tận cổ và gấu quần phải chấm mắt cá chân.
    Trong tiến trình “Mỹ hoá” ở miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương lần thứ II, các tác giả phương Tây vẫn muốn chỉ rõ sự khác biệt giữa “gái ba” ở các đô thị, và phụ nữ Việt Nam.
    Tác giả Richard West trong Thắng lợi ở Việt Nam (Victory in Vietnam) viết rằng không mấy phụ nữ Việt nam, kể cả những ai học tiếng Anh, chấp nhận “lối sống Mỹ”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chân dung tác giả Laurie Smith khi ở Vũng Tàu.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Sương muốn vào một nhà hàng Hàn Quốc nhưng nhân viên ở đây kiên quyết không cho cô vào…”.”Anh ta bình tĩnh lại khi tôi chìa ra mấy tờ Đô-la Mỹ. Sau đó, anh cúi đầu chào và đưa chúng tôi vào bàn của mình…”. “Sương và tôi đã ăn và nói chuyện giống như bất kỳ cặp vợ chồng khác trong một cuộc hẹn. Một ngọn nến lung linh trên bàn của chúng tôi trong nền nhạc du dương…”.
    “Chúng tôi đi bộ về nhà và tôi đã đi chậm lại để chụp bức ảnh này. Tôi nghĩ rằng cô ấy đã khiến cho khung cảnh trở nên tươi vui hơn. Chúng tôi đã mua một số trái cây để ăn sau đó…”.
    “Bức ảnh này mang lại những cảm xúc mà tôi nghĩ rằng đã bị chôn vùi…”. “Bạn có thể tin hay không, cô ấy đã rất ngượng ngùng khi tôi thuyết phục cô chụp kiểu ảnh quấn khăn tắm này…”.
    “Một vài tuần sau khi tôi chụp bức ảnh này Sương ngừng làm việc tại quầy bar và tôi không bao giờ nhìn thấy cô ấy một lần nữa. Tôi không ngạc nhiên nhưng tôi cảm thấy bị mất mát. Tôi không thiếu một bạn tình, họ có thể được tìm thấy trong bất kỳ quán bar nào. Tôi đã mất một người thực sự có ý nghĩa nào đó với cuộc sống của tôi. Nhìn lại một năm qua, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp long lanh. Tôi sẵn lòng lột bỏ lớp vỏ của mình để nói rằng Sương đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của tôi…”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Tôi đã mua cho mình một bộ máy ảnh Yashica Electro 35 cùng ống kính khi đến Vũng Tàu. Nó chụp khá ổn dù tôi không nghĩ rằng mình đã tận dụng hết khả năng nó có. Tất cả những hình ảnh ở đây được chụp với nó và tôi chỉ rửa ảnh một lần. Những bức ảnh đã tồn tại sau 42 năm và vẫn đang trong tình trạng khá tốt”.
    “Tôi nhìn những bức ảnh này với một niềm xao xuyến. Nó như vẳng lại một thời kỳ trong cuộc sống của tôi với đầy đủ các cuộc phiêu lưu và trải nghiệm mới, đất nước mới, bạn bè mới, tình yêu mới? Tôi có thể nghe một số người nhạo báng mình khi tìm thấy tình yêu với một gái điếm. Một phụ nữ bị bỏ rơi, một con điếm nhưng không hẳn là như vậy. Cô ấy bán cơ thể của mình để kiếm sống, và ít nhất là cô ấy trung thực”.
    “Chúng tôi đã có một bức hình chung được chụp bởi một cô gái khác bằng máy ảnh Polaroid và Sương giữ nó. Cô dán tấm ảnh vào bức tường phía trên giường, bên cạnh một bức tượng Phật nhỏ”.
    “Đêm nay, một đồng đội của tôi trở về doanh trại và nói với tôi rằng:
    – Tao nghĩ rằng có ai đó thích mày
    – Ai? tại sao?
    – Sương, ở quán Bar Texas. Tao đưa cô ta về nhà và cùng nhau cởi quần áo. Tao leo lên giường và khi chuẩn bị bắt đầu thì nhìn thấy hình ảnh của mày và cô ta trên tường. Và tao buột miệng: ‘Này, đó chính là Laurie’. Cô ta nói: ‘Anh biết Laurie sao? Anh hãy ra khỏi đây đi, tiền của anh đây. Tôi sẽ không đi với bất cứ ai quen với anh ấy’. Sau đó, cô ta đã đẩy tao ra khỏi giường và nhét tiền vào túi áo sơ mi của tao”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Khi tôi ngồi xuống bên cạnh cô ấy trong quầy, tôi cảm thấy một điều gì đó thật khác lạ. Không phải kiểu gái điếm muốn kiếm tiền nhanh chóng, cô ấy có sự chín chắn nhất định cùng khiếu hài hước. Chúng tôi nói chuyện, cười đùa và tôi đã gọi trà Sài Gòn để có thể ngồi nhâm nhi cùng cô. Tôi được biết rằng cô đã 28 tuổi, một góa phụ với hai đứa con của người chồng đầu tiên và một đứa con với một lính Mỹ, người dành phần lớn thời gian tham gia chiến tranh Việt Nam để sống với cô ở Vũng Tàu. Giờ anh ta đã về nước và cô cần phải kiếm sống. Cô đã đưa tôi đến nhà mình, một căn phòng trong một ngôi nhà nhỏ cách năm phút đi bằng taxi Lambro…”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Bức ảnh này chụp các cô gái làm ở quán bar Texas. Bây giờ, tôi sẽ để cho bạn đoán xem ai trong số đó là người phụ nữ đã khiến thời gian còn lại của tôi ở Việt Nam trở thành một niềm vui. Không chỉ có nhục dục, đó còn là một người bạn gái và bạn đồng hành. Cô ấy rất dịu dàng, vui vẻ, thân thiện và tôi dám nói rằng mình đã yêu cô ấy một chút. Điều này có vẻ kỳ lạ khi người ta có thể thuê một người khác đề làm bạn bè, bạn đường và cả bạn tình. Tuy nhiên, đây là một mối quan hệ hoàn toàn chân thành. Cả hai chúng tôi đều hiểu rõ về địa vị của mình, ngay từ đầu…”.
    “Tôi chỉ biết tên cô ấy là Sương”. “Sương là người phụ nữ trong tà áo dài, đứng ở cửa, bên cạnh cô gái tạo đang dáng với những ngón tay quắp lại”
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Câu chuyện qua ảnh cảm động về mối tình lính Úc và nàng điếm Vũng Tàu 1970
    “Tôi có thể nghe một số người nhạo báng mình khi tìm thấy tình yêu với một gái điếm. Một phụ nữ bị bỏ rơi, một con điếm nhưng không hẳn là như vậy. Cô ấy bán cơ thể của mình để kiếm sống, và ít nhất là cô ấy trung thực…”.
    Hình ảnh cùng các chia sẻ trích từ bài viết có tiêu đề “Người đàn bà đẹp” (Pretty woman) đăng tải trên blog của một cựu binh Australia tên Laurie Smith, từng đóng quân ở Vũng Tàu năm 1970. Thời điểm đó, tác giả Laurie đang ở độ thuổi 20.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Bên cạnh gái bar, gái nhảy tại các các hộp đêm, vũ trường ở miền Nam trước 1975 cũng là đối tượng sẵn sàng chiều lính Mỹ tới bến.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ cặp kè với gái nhảy trong một hộp đêm ở Sài Gòn, tháng 3/1968. Ảnh: Warin Vietnam Tumblr.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ đùa giỡn với gái điếm trong một tòa nhà đổ nát ở ngoại ô Sài Gòn. Ảnh: Nik Wheeler.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chân dung một gái bán hoa ở miền Nam Việt Nam năm 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái điếm chờ khách tại nhà thổ gần sân bay Tân Sơn Nhất, điểm đến quen thuộc của lính Mỹ, 1973. Ảnh: René Burri
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Gái làng chơi phía ngoài một quán bar ở Cần Thơ, 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ mây mưa với gái nhảy sau một buổi diễn phục vụ quân Mỹ ở Nhà Bè, ngoại ô Sài Gòn 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Bên ngoài quán bar Mai Kim ở Cần Thơ, 1970. Phía sau các quán bar phục vụ lính Mỹ là sự bảo kê từ giới chức quân đội Sài Gòn. Ảnh: Philip Jones Griffiths
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Những cô gái bán dâm phục vụ lính Mỹ không hành nghề tự do mà thường là nhân viên của các quán bar. Cô gái này làm việc ở quán bar Venus, Cần Thơ năm 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Khi rảnh rỗi, lính Mỹ đóng tại các đô thị miền Nam trước 1975 thường tìm kiếm lạc thú trong các tụ điểm mại dâm núp bóng quán bar, khách sạn. Hình ảnh này chụp tại Cần Thơ năm 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cuộc trao đổi kín đáo giữa người lính Mỹ và hai cô gái “bán hoa”. Ảnh: Mondatori
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Tú bà” mỉm cười nhìn một nhân viên trong giàn “gái dịch vụ” của mình, tháng 1/1970. Ảnh: LIFE.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Người lính Mỹ cùng bạn gái của mình ở Vũng Tàu, tháng 4/1969. Lính Mỹ đóng quân tại các đô thị ở miền Nam Việt Nam thường tìm kiếm nhân tình tại các quán bar. Các mối quan hệ kiểu này được duy trì bằng tiền và mang tính công khai. Ảnh: Ullstein Bild.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái bán hoa với mái tóc dài, Sài Gòn 1968. Ảnh: Mondatori.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cô gái này chuẩn bị “tiếp khách” trên chiếc giường trong một căn phòng tồi tàn, Sài Gòn tháng 1/1968. Ảnh: Getty Images. Ảnh: Mondatori.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái bán dâm cùng đứa con tại địa điểm hành nghề là một khu nhà lỗ chỗ vết thủng do bom đạn, Sài Gòn tháng 1/1968. Ảnh: Mondatori.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Những cuộc tình chớp nhoáng của lính Mỹ thường bắt đầu tại các quán bar. Sau màn “làm quen” bằng bia rượu, họ sẽ đưa các cô gái Việt về khách sạn hoặc về nhà trọ… Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Khuôn mặt được trang điểm khá cẩn thận của một gái làng chơi. Ảnh chụp trong quán bar, Sài Gòn tháng 9/1967. Ảnh: Gilles Caron
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Trong góc của quán bar, một lính Mỹ da trắng đang ôm eo cô gái Việt. Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cảnh tình tứ giữa người lính Mỹ da đen và nhân tình trong một quán bar ở Sài Gòn, tháng 9/1967. Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chân dung một cô gái gọi bán dâm thời chiến tranh Việt Nam, Sài Gòn tháng 9/1967. Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Loạt ảnh do các phóng viên quốc tế thực hiện ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái điếm khoe thân mời chào khách trong quán bar ở Vũng Tàu năm 1970. Ảnh: Laurie Smith

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Các ả đào đang đợi khách (đa phần là lính Tây) đã hẹn lịch
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Trên 1 con phố Sài Gòn có các quán bar trứ danh
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Có thể nói, với lối sống phóng khoáng. Việc làm gái bán hoa thời điểm bấy giờ không bị kỳ thị nhiều
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    1 cô gái nhận tiền tip từ khách
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Và họ xem đó như một chuyện bình thường
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Công việc nhảy múa thường đêm của họ,dường như đã là 1 phần cuộc sống
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Trước 1 quán bar Sài Gòn, các ả đang chờ mối khách đã hẹn của mình
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lực lượng lính Mỹ vô cùng đông đảo vào thời điểm bấy giờ,nên đồng nghĩa nhu cầu đời sống tình dục cũng gia tăng
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Họ sở hữu những thân hình vô cùng nóng bỏng và ấn tượng
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    đời sống về đêm vô cùng sôi động
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Tại một quán Bar
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một anh lính Mỹ cùng người tình chớp nhoáng Sài Thành 1970s

     

    Nguồn: THE RÉTRO STUDIO

     

  • Ảnh thiếu nữ Việt khỏa thân thời Pháp thuộc

    Ảnh thiếu nữ Việt khỏa thân thời Pháp thuộc

    ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1) ẢNH KHỎA THÂN THIẾU NỮ VIỆT NAM - ẢNH nude việt nam xưa (1)

    Những bức ảnh phụ nữ Việt khỏa thân này nằm trong số hàng nghìn bức ảnh chân thực về Việt Nam dưới thời Pháp thuộc của nhà nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Pháp Pierre Dieulefils (1862-1937).

    Ông đã mô tả rất chân thực hình ảnh và cuộc sống của những tầng lớp người Việt Nam dưới thời Pháp cai trị. Những bức ảnh đó được đánh giá cao bởi tính chân thực, giàu tính tư liệu, được chụp bởi tay máy chuyên nghiệp biết tôn trọng văn hoá bản địa, và còn được chụp với với một tinh thần dân tộc học rõ nét nhằm truyền đạt những thông tin văn hóa bằng hình ảnh.

    Năm 1885, Pierre Dieulefils gia nhập pháo binh Pháp ở Bắc Kỳ. Năm 1886, ông mở triển lãm ảnh đầu tiên của mình tại Hà Nội.

    Từ năm 1888, sau khi giải ngũ, ông hành nghề ảnh tại Hà Nội. Năm 1889, ông đoạt huy chương đồng tại Exposition Universelle tại Paris nhờ những bức ảnh chụp tại Đông Dương.

    Ông cưới vợ là bà Marie Glais năm 1889 và đưa vợ sang sống tại Hà Nội. Năm 1900 ông đoạt huy chương vàng tại Exposition Universelle tại Paris. Năm 1910, ông lại đoạt huy chương vàng tại l’Exposition Internationale de Bruxelles.

    Bộ ảnh này sau đó được nhà sưu tập bưu ảnh nổi tiếng người Pháp Philippe Chaplain mua và lưu giữ. Mời độc giả thưởng thức trọn vẹn cả bộ ảnh đậm chất văn hóa và nghệ thuật này.

    Thêm một số bức ảnh nude thời xưa :

    anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20) anh nude thoi xua viet nam - anh khoa than con gai vietnam xua (20)

     

     

    Hình Ảnh Việt Nam sưu tầm từ nhiều nguồn.

  • Hoạn quan trong Sử Việt

    Hoạn quan trong Sử Việt

    Thái giám Vương triều Nguyễn
    Thái giám Vương triều Nguyễn

    Sử sách của ta chỉ chép tỉ mỉ từ đời Lý, trước đó nước ta có hoạn quan hay không thì không rõ, nhưng xét ra có lẽ chế độ hoạn quan của ta bắt chước Trung quốc.

    Theo các sách Chu lễ và Kinh lễ thì đời nhà Chu các hoạn quan chỉ giữ việc quét dọn, canh phòng, hầu hạ trong cung cấm, thường được gọi là Tư nhân, hay Yêm doãn (yêm = thiến, doãn = trưởng quan) sau mới đổi ra hoạn quan nghe tôn quý hơn. (Ở Việt Nam thường gọi là : nội thị, quan thị, nội giám, ông Giám, ông Bõ).

    Tuy tổng số có thể lên đến 3000 người, nhưng chỉ mộ số ít được giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của vua đến các phi tần. Những người này đều có tên khắc chữ vàng trên thẻ ngọc. Mỗi khi vua muốn triệu ai thì chọn thẻ giao cho viên nội giám giữ việc ấy để đem đèn đến treo trước cửa người cung phi được chọn. Cô này thấy hiệu bèn trang điểm rồi trút bỏ xiêm y, viên nội giám dùng một cái áo choàng rộng màu đỏ bọc lại rồi ẵm đến tận cung vua. Sau đó viên này phải ghi rõ ngày giờ vào sổ để nếu sau có sinh con trai thì đó là bằng chứng.

    Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì từ cuối đời Hán hoạn quan mới tiếm quyền trong triều, nắm giữ cả văn ban lẫn võ ban, kết giao với các đại thần, gây vây cánh…

    Năm 1653, vua thấy hoạn quan lũng đoạn triều chính thái quá bèn ra sắc lệnh không cho những người này làm quan quá tứ phẩm, cấm dự bàn quốc sự, cấm không đuợc giao hảo với các đại thần, nếu không sẽ bị họa phân thây. Tuy nhiên, trên thực tế, đạo luật này ít khi được áp dụng.

    I.- NHỮNG HOẠN QUAN DANH TIẾNG Ở NƯỚC TA

    * Đời Lý

    . Lý Nhân Nghĩa.

    Nói đến hoạn quan đời Lý ai cũng nghĩ ngay đến Lý Thường Kiệt nhưng viên hoạn quan đầu tiên được nêu tên trong sử lại là Lý Nhân Nghĩa.

    Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật Mã lên ngôi, ba vương là Đông Chính, Dực Thánh và Vũ Đức mưu phản, đem quân mai phục trong Long Thành và ngoài cửa Quang Phục. Thái tử biết có biến sai vệ sĩ phòng giữ và sai bọn hoạn quan đóng các cửa điện, nhưng dùng dằng không nỡ quyết liệt với anh em. Nội thị Lý Nhân Nghĩa xin ra đánh, tâu : ” Nay ba vương làm phản thì là anh em hay cừu địch ?…Tiên đế cho điện hạ là người có đức, có thể nối được chí nên lấy thiên hạ phó thác cho điện hạ, nay giặc đến tận cửa cung mà ẩn nhẩn như thế thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao ? “. Thái tử lẳng lặng hồi lâu nói : ” Vì ta muốn giấu tội ác của ba vương cho tự ý rút quân để trọn nghĩa anh em “. Sau thấy ba vương đánh gấp, thái tử liền ủy cho bọn Lý Nhân Nghĩa và cung quan là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu đánh dẹp. Hiểu giết được Vũ Đức, còn Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát.

    Đến tháng tư năm 1028, vua Thái Tông đi đánh phủ Trường Yên, cũng giao cho Lý Nhân Nghĩa ở lại giữ kinh sư, phòng Khai quốc vương làm phản (1).

    Xem thế đủ biết Lý Nhân Nghĩa không phải loại hoạn quan nô bộc mà là người có quyền can gián vua và rất được vua tín nhiệm.

    . Lý Thường Kiệt (1019-1105).

    Lý Thường Kiệt quê ở Thăng Long, húy là Tuấn, tự là Thường Kiệt. Người cha sung chức Sùng ban lang tướng. Năm Thường Kiệt 13 tuổi thì mồ côi cha. Người chồng của cô là Tạ Đức thấy có chí bèn gả cháu gái là Thuần Khanh và dậy cho binh thư Tôn Ngô. Trước năm 1040 Thường Kiệt cũng được học đạo Nho.

    Nhờ phụ ấm, lúc đầu giữ một chức quan nhỏ là Kỵ mã hiệu úy. Năm 23 tuổi (1041) sung chức Hoàng môn chỉ hậu, khi ấy đã là hoạn quan. Có hai thuyết nói về việc Thường Kiệt tự hoạn :

    – Vì vua thấy Thường Kiệt mặt mũi đẹp đẽ nên cho ba vạn quan bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ ;

    – Vua Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng Trí Cao lại tha về. Thường Kiệt can ngăn, vua cho là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu cho vào hầu cận.

    Thuyết đầu có lẽ có lý hơn vì em ông là Thường Hiến cũng là hoạn quan, chẳng lẽ vua cũng bắt tự hoạn chỉ vì Thường Kiệt ” thất lễ ” ? Ông Hoàng Xuân Hãn còn vạch ra rằng từ khi bình Chiêm, tha Nùng Trí Cao đến khi bắt Thường Kiệt tự hoạn rồi lại trọng dụng chỉ vỏn vẹn có mấy tháng, thời gian hơi ngăén để làm đủ từng ấy chuyện.

    Vào cung chưa được một kỷ (12 năm) Thường Kiệt được thăng Đô Tri, coi tất cả mọi việc trong cung cấm.

    Năm 1054, vua Lý Thánh Tông lên ngôi, Thường Kiệt sung chức Bổng hành quân quốc Hiệu úy, rồi Kiểm hiệu Thái bảo, một chức rất cao tại triều.

    Năm 1601, vua sai ông dẹp loạn ở cõi Tây nam, Man Lào.

    Năm 1069, vua Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, phong ông làm Đại tướng, cho em ông là Thường Hiến giữ chức Tân kỵ vũ úy. Thường Kiệt bắt được Chế củ, Củ dâng đất chuộc tội được tha về. Thường Kiệt thăng Phụ quốc Thái phó (chức thứ ba trong hàng Tể chấp) Đao Thụ Nam bình Tiết độ sứ (chức thứ hai trong hàng tướng) Thượng Trụ quốc, Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (hàng vương). Sau lại thăng Thái Úy Đồng Trung Thư môn hạ Bình chương sự (chức thứ hai sau Thái sư Lý Đạo Thành) trông nom quốc chính.

    Năm 1072, Thánh Tông mất, Nhân Tông là con Ỷ Lan Thái phi lên ngôi. Lý Đạo Thành ở ngôi Tể tướng đã 18 năm, nay làm Phụ chính, tôn Thượng Dương Thái hậu lên chấp chính nhưng Thường Kiệt lại tôn phò Ỷ Lan, chia thành hai phe. Bốn tháng sau phe Thường Kiệt thắng, Lý Đạo Thành bị giáng chức.

    Năm 1073, vua Nhân Tông ban cho Thường Kiệt chức Đôn quốc Thái úy, Đại tướng quân, Đại Tư đồ coi việc văn võ kiêm cả chức cấm quan.

    Năm 1075, nhà Tống định thôn tính nước ta, Thường Kiệt biết ý đón đánh, Tống quân thất bại phải lui về.

    Năm sau nhà Tống sang báo thù, nhưng thủy quân không tinh nhuệ bằng quân Nam, lại thất bại lần nữa. Thường Kiệt không muốn chiến tranh kéo dài, dùng biện sĩ dàn hòa. Năm 1077 Tống lui binh, tổn thất binh sĩ, tiền của rất nhiều mà chỉ chiếm được có 5 châu miền rừng núi. Thường Kiệt lại dùng mưu kế chiếm lại 5 châu, khi thì dùng vũ lực, lúc xúi dân cướp phá, hoặc giảng hòa đòi đất…

    Khi đánh Tống, ông làm bài thơ khuyến khích quân sĩ, nay còn lưu truyền :

    Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.dịch nghĩa :

    Sông núi nước Nam, Nam đế ở,
    Phận định nghìn xưa tại sách Trời.
    Như bọn giặc nào sang cướp lấn,
    Là thua tan hết lũ bay coi.

    (Đại Việt sử lược, tr. 159)

     

    Năm 1082, vua Nhân Tông trưởng thành, tự cầm quyền chính, cho Thường Kiệt ra trấn giữ Thanh Hóa trong 19 năm.

    Đến 1101, Thường Kiệt được triệu về kinh coi hết các việc trong ngoài cung điện.

    Năm 1104, Chiêm Thành quấy nhiễu miền nam, Thường Kiệt lúc ấy đã 85 tuổi, kéo quân vào, quân Chiêm vội lui, Thường Kiệt cũng không đuổi theo. Vua chế bài hát tán dương công trạng Thường Kiệt, lại ban thêm chức tước.

    Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất ở kinh đô, thọ 86 tuổi. Mộ táng ở làng Yên Lạc, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Được truy phong Nhập nội điện, Đô tri Kiểm hiệu Thái úy, Bình chương quân quốc trọng sự, Việt quốc công, cho thực ấp vạn hộ(2).

    * Đời Trần

    . Phạm Ứng Mộng. Sử chép năm 1253, vua Trần Thái Tông một hôm chiêm bao thấy thần nhân trỏ vào một người bảo có thể làm Hành khiển (chức Tể tướng thứ hai, chế độ nhà Lý dành cho hoạn quan). Đến năm 1254, một hôm đi chơi ngoài thành, vua gặp một người giống hệt người trong mộng bèn cho 400 quan tiền bảo tự thiến để vào hầu, đặt tên là Ứng Mộng. Sau quả nhiên làm đến chức Hành khiển(3).

    Theo Samuel Baron(4) thì đời Trần có một trong ba hoạn quan danh tiếng tên là ” Ong Ja Tu Lea ” (” Ong Ja ” trỏ vào người đáng kính) nổi tiếng vừa nhờ tài trí, thăng chức mau chóng, vừa vì cái chết bi thảm. Chính ông là người vua Trần đã thấy trong mộng và cho tiền để tự hoạn, sau làm quan càng ngày càng quyền cao, chức trọng, được mọi người kính nể, xu nịnh, sợ hãi còn hơn sợ vua. Do đó vua chán ghét, cuối cùng hạ lệnh xử tử bốn ngựa phanh thây, đem xác đốt thành tro, đổ xuống sông. Như thế thì ” Ong Ja Tu Lea ” hẳn là Phạm Ứng Mộng, song không thấy sử chép Phạm Ứng Mộng còn có tên là ” Tu Lea “, và cũng không thấy nói Phạm Ứng Mộng bị xử tử.

    * Đời Lê

    . Lương Đăng. Tháng giêng năm 1437, Vua Lê Thái Tông sai Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc làm loan giá, nhạc khí, dậy tập nhạc và múa. Đến tháng 5, Nguyễn Trãi tâu : ” Bọn thần sở kiến không giống nhau, thần xin trả lại mệnh ấy “. Lương Đăng dâng nhạc mới bắt chước quy chế của nhà Minh, định các nghi thức đại triều. Vua theo đề nghị của Lương Đăng, sai chép lại các nghi thức ấy treo ở ngoài cửa Thừa Thiên. Vua lễ yết Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy.

    Bọn hành khiển Nguyễn Trãi, Tham Tri hạ tịch Nguyễn Tuyển, Đào Công Soạn, Nguyễn văn Huyến, Tham nghị Nguyễn Liễu tâu : ” Đặt lễ, làm nhạc, được như Chu Công thì mới không có ai chê trách. Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng một mình định lễ nhạc, cả nước chẳng nhục lắm ư ? Lễ nhạc của y không bằng cứ vào đâu, như đánh trống là báo giờ ra chầu buổi sớm, nay vua ra chầu rồi mới đánh trống. Theo quy chế xưa, lúc vua ra, bên tả đánh chuông hoàng chung, rồi 5 chuông bên hữu ứng theo. Nay vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó là số nhà sư lần tràng hạt… Làm xe thì đằng trước có diềm, đằng sau mở cửa, nay mở cửa ở đằng trước, quy chế đời xưa như thế sao ?… ” Đăng tâu : ” Thần không có học thuật, không biết quy chế đời xưa, nay làm ra chỉ biết hết kiến thức của thần, việc nên thi hành hay không là quyền ở bệ hạ, thần đâu dám chuyên “. Nguyễn Liễu nói : ” Từ xưa chưa có hoạn quan nào chuyên phá hoại thiên hạ như thế “. Hoạn quan Đinh Thắng từ bên trong mắng ra : ” Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ ? Nếu phá hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước “. Bèn giao Liễu cho hình quan xét tội, xét án xong, tội đáng chém, vua đặc chỉ cho thích chữ vào mặt, lưu ra viễn châu(5).

    Vua coi chầu lúc ra lúc vào có đập roi dẹp đường bắt đầu từ đấy.

    Tháng 10, Lương Đăng thăng chức Đô giám. An phủ sứ Lạng Sơn, Bùi Cầm Hổ can : ” Tiên đế thấy Lương Đăng biết chút chữ nghĩa cho làm nội nhân Phó chưởng, nhưng rồi thấy hắn chỉ khúm núm bề ngoài, không thẳng thắn, không thể gần gũi được mới cho ra làm văn đội. Thế mà nay cho lên chức quan to, xin bệ hạ nghĩ lại “(6).

    Lương Đăng làm quan to nhưng không tham dự triều chính, không kết bè đảng nắm giữ quyền uy, không giết hại ai, chỉ vì đặt quy chế lễ nhạc không giống với Trung Quốc mà bị các đại thần xúm nhau lại chê trách.

    . Hoàng Công Phụ sinh quán ở Thăng Long, đẻ ra đã có khuyết tật. Năm 14 tuổi vào hầu trong phủ Chúa Trịnh, dần dần được Chúa tin dùng, uy quyền tột bậc.

    Năm 1739, Trịnh Giang nghe lời Hoàng Công Phụ triệu sĩ tử vào thi ở phủ đường, cho Trịnh Tuệ đỗ Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh. Không đầy vài năm Tuệ làm đến chức Tham tụng đứng đầu các quan trong phủ chúa.

    Trịnh Giang mắc bệnh kinh quy, sợ sấm sét, Phụ sai đào hầm làm cung Thưởng Trì cho ở, không ra đến ngoài nữa, nói vì dâm dục quá nên ác báo. Rồi Phụ cùng Trịnh Tuệ và đồ đảng chuyên quyền, giết hại đại thần không kiêng kỵ sợ hãi ai, phủ dịch nặng nề, lòng dân oán thán. Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển ở Hải Dương xui dân làm loạn, người các xứ Đông, Nam, Bắc theo rất nhiều.

    Năm 1740, Thái phi Vũ Thị, mẹ Trịnh Giang và Trịng Doanh, muốn triệt bớt uy quyền của Phụ, cho Doanh lập ” Phủ đề nhiếp “. Phụ ghét Doanh sáng suốt, quả quyết, chỉ cho ở nhà nhỏ phía nam phủ chúa, lại cấm các quan không được dùng chữ ” Bẩm ” khi tâu với Doanh mà phải dùng chữ ” Thân ” (=Trình).

    Khi tin cáo cấp về Nguyễn Tuyển đến kinh, Phụ nghĩ Tuyển trước ở nhà mình, có quen biết, muốn thân đi vỗ yên, đem hết binh lính bản bộ theo, bỏ kinh thành trống. Bọn Nguyễn Quý Kính muốn ép Doanh lên ngôi. Nội giám Phan Lại Hầu lên tiếng hặc, Tào Thái đem sắc chỉ của vua đến, Phan đứng cạnh la trách. Đô đốc Đồng tri Trịnh Khuông mắng là vô lễ, sai giam ngục. Nguyễn Công Thái truyền ý chỉ của Thái phi, Khuê quận công Giáp Nguyễn Khoa (hoạn quan) lên lầu nổi hiệu trống, các quan lạy mừng Doanh lên ngôi.

    Năm 1761, Doanh đặc biệt thưởng công mười người phò lập mình, trong số đó có Giáp Nguyễn Khoa Khuê quận công được ruộng thái ấp để hưởng lộc.

    Không thấy sử chép số phận Hoàng Công Phụ ra sao(7).

    . Phạm Huy Đỉnh ( ?- 1776)

    người xã Cao Mỗ huyện Thần Khê. Khi Trịnh Sâm còn là Thế tử, Chính phi của Trịnh Doanh là Nguyễn Thị Vinh, ngăn không cho Sâm ngồi cùng mâm với Thái tử Lê Duy Vĩ để giữ lễ vua tôi. Sâm căm giận Thái tử, sau khi lên cầm quyền, năm 1769, mưu với Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đỉnh vu cho Thái tử thông dâm với cung nhân của Trịnh Doanh, sai Đỉnh đem thân binh đi bắt. Thái tử biết, trốn vào tẩm điện của vua. Đỉnh đến Đông cung không tìm thấy, đi thẳng vào điện vua kể tội Thái tử, điệu về phủ Chúa. Sâm sai lập án, bắt vua ký, giáng Thái tử làm thường dân, giam lại. Năm 1771, lại vu cho bọn Trần Trọng Lâm, Nguyễn Hữu Kỳ…muốn cướp ngục đem Thái tử ra. Sâm sai tra tấn, Vũ Bá Xưởng đau quá nhận bừa. Thái tử bị ghép tội xử giảo.

    Năm 1773, Đỉnh thăng chức Thự phủ sự (Tể tướng) phủ Chúa. Lê Quý Đôn tuy tài giỏi, nhưng cả Trịnh Doanh và Trịnh Sâm đều không trọng dụng, phải kết giao với Đỉnh, sau được giữ chức Bồi tụng (Phó Tể tướng).

    Sâm lại nghe Hoàng Ngũ Phúc cho Đỉnh làm Hiệp đốc suất đạo Thanh Hoá, tước Công hai chữ (nhỏ hơn tước Công một chữ, như Bằng Công thì cao hơn Bằng Trung Công), phong là Đại vương.

    Năm 1776, Thự phủ sự Thiều quận công Phạm Huy Đỉnh mất ở Nghệ An, truy phong Phúc thần.

    Đỉnh là người có tính đố kỵ, hà khắc, thâm độc, nhiều lần gây ra những vụ án lớn như vụ giết Thái tử Duy Vĩ(8).

    . Hoàng Ngũ Phúc (1713 – 1776)

    người xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc. Lúc trẻ tự hoạn để được vào hầu trong cung.

    Năm 1740, giữ chức Tả Thiếu giám, tước Việp Trung hầu.

    Năm 1743, đề xuất 12 điều quân pháp, được Trịnh Doanh cho thi hành.

    Từ 1744 đến 1750, cùng Phan Đình Trọng dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu, thu phục lại Kinh Bắc. Cầu phải chạy vào Nghệ An. Phúc được phong Trấn thủ Kinh Bắc kiêm thống lĩnh Bắc đạo, tước Việp quận công.

    Năm 1751 đánh Nguyễn Doanh Phương, bắt được ở Lập Thạch, công bậc nhất, được phong Đại Tư đồ, Trấn thủ Sơn Nam.

    Đến 1765 được ban kim bài khắc bốn chữ ” Dự quốc đồng hưu ” (cùng hưởng yên vui, sung sướng với nước).

    Năm 1769 cùng Trịnh Sâm và Phạm Huy Đỉnh vu tội cho Thái tử Duy Vĩ rồi đem giết.

    Đến 1774, xin về hưu, được ban cho hiệu Quốc lão.

    Sau Sâm lại triệu ra phong Thượng tướng, sai đem 36000 quân thủy bộ đánh dẹp miền Nam, Phúc luôn luôn thắng trận, tiến đến Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan, chúa Nguyễn phải bỏ chạy.

    1775 tiến vào Quảng Nam, chiếm được hai đồn Câu Dê và Trung Sơn rồi mới cho quân tạm nghỉ.

    Vì mắc bệnh tê liệt, được trở về Thăng Long. Trên đường về kinh sư, mất ở trên thuyền tại Vĩnh Dinh (Nghệ An) năm 1776.

    Hoàng Ngũ Phúc tư thế oai phong, quân lệnh nghiêm minh, hành quân rất có kỷ luật. Khi chiếm được Phú Xuân, Phúc thu nhặt những thứ quý giá dâng chúa Trịnh, còn thì niêm phong.

    Thuộc hạ Thế trung hầu Hoàng Đình Thể cướp của dân, Phúc sai Uông Sĩ Điển tra hỏi, đem trả lại dân rồi không bàn đến chuyện thưởng công đánh được Lũy Thầy.

    Với Nguyễn Nhạc, Phúc tỏ ra viên tướng biết quyền bính, thay triều đình làm tờ hiểu dụ, ban cho Nhạc mũ áo…

    Khi Phúc đi Nam chinh, Sâm mấy lần gửi trát thăm hỏi, đưa chỉ dụ khen, thưởng vàng bạc, quần áo đồ dùng, sâm quý vài mươi lạng, cho chạy ngựa trạm đem đến. Lại thăng cho làm Đại Trấn thủ Thanh Hoá…

    Phúc ốm nặng còn gửi khải về tâu bàn với Chúa khoan đánh Quảng Nam, hãy cho quân sĩ nghỉ ngơi vài năm, Sâm nghe theo.

    Khi Phúc mất, Sâm bãi chầu.

    Phúc có tiếng là người cẩn trọng, việc lớn nhỏ trong quân đều tự mình xem xét, dụng binh không cậy may rũi, xử sự quả quyết, trung tín, rất được lòng người. Nguyễn Hữu Chỉnh coi Phúc là quan thầy.

    Phúc không có con, nuôi người cháu là Hoàng Đình Bảo (tức quận Huy) làm con nuôi. Bảo lại lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Vây cánh, thuộc hạ của Phúc đầy triều, quyền uy lừng lẫy dến nỗi dân chúng đồn là Phúc muốn cướp ngôi để lập ” Triều đình Hoàng thị ” sau này truyền cho Bảo, đặt ra những lời sấm truyền :

    ” Thổ sất vân yểm nguyệt ” = con rể là đám mây che mặt trăng (chỉ chữ ” tế ” = con rễ, tức Hoàng Đình Bảo).

    ” Hoàng hoa nhật điệu hương ” = hoa vàng càng ngày càng tỏa hương thơm (chỉ chữ ” Việp “, tức Hoàng Ngũ Phúc).

    Còn có câu ” Một lợn đuổi đàn dê ” vì Bảo tuổi hợi (con lợn) còn Sâm và Khải đều tuổi mùi (con dê) ; Bảo trước tên là Đăng Bảo, có thể hiểu là �lên ngôi vua “, Phúc muốn tránh hiềm nghi cho đổi ra Tố Lý, sau mới đổi lại thành Đình Bảo.

    Phúc là một viên tướng lỗi lạc, chiến công, danh vọng nhiều, đối với chúa Trịnh tỏ ra hết lòng trung trực, duy có chuyện nhúng tay vào vụ giết Thái tử Duy Vĩ là một hành động không được quang minh.

    Sau khi chết được truy tặng Thượng đẳng Phúc thần(9).

    * Đời Nguyễn

    . Lê văn Duyệt (1763 – 1832)

    sinh quán làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi.

    Năm 1780, Nguyễn Ánh biết Duyệt có khuyết tật, sung làm Thái giám nội dinh.

    Năm 1800, Duyệt dùng hỏa công đốt thuỷ trại Tây Sơn ở cửa bể Thị Nại, thu phục Qui Nhơn.

    1812, làm Tổng trấn Gia Định cho đến 1816 thì về kinh.

    1820 lại ra giữ chức Tổng trấn Gia Định cho tới khi mất.

    Duyệt là một viên tướng tài, giúp Chúa Nguyễn Ánh đánh Trịnh, dẹp Tây Sơn, biết quyền biến.

    Tuy có tính trực ngôn nhưng ngoại giao cũng khôn khéo. Khi sứ Xiêm đến Hà Tiên, năm 1820, không chịu trình quốc thư, lời lẽ có chỗ không hợp lệ, triều đình giao cho ông tuỳ nghi hành sự, ông bắt bẻ, sứ Xiêm phải nhận lỗi và nhất nhất vâng lời. Sứ Xiêm đem vàng bạc tặng, ông không nhận(10).

    Là một nhà chính trị xuất sắc, ông rất được lòng dân, người ta tôn xưng ông là Đức Thượng công.

    Cả hai vua Gia Long và Minh Mệnh đều biệt đãi ông. Khi cha ông tạ thế, năm 1827, triều đình không những gia phong chức tước, ban tiền bạc, còn sai quan đến tế và 300 lính hộ tang. Khi ông ốm ở Gia Định, cũng được tạm nghỉ việc để điều dưỡng, lại cho phép con ông là Kiêu kỵ đô uý Lê văn Yến đi thăm nom.

    Theo người Pháp thì khi vua Gia Long mất, ông có ý muốn tôn phò dòng chính thống, hậu duệ của Hoàng tử Cảnh, lại khi vua Minh Mệnh lên cầm quyền, ông khuyên can không nên bạc đãi những công thần người Pháp nên bị vua để bụng ghét. Sau khi ông mất, năm 1833, vua giao cho triều đình nghị tội mưu phản, san bằng ngôi mộ, dựng bia đeo xiềng mang hàng chữ ” Quyền yêm Lê văn Duyệt phục pháp xử ” (=tên hoạn quan Lê văn Duyệt chịu phép nước ở đây). Sau dân chúng đổ cho là vì xúc phạm đến mộ phần của ông nên Trời ra tai, nên đến 1835, vua Tự Đức cho ông phục chức Vọng các công thần Chưởng tả quan, Bình tây tướng quân, tước quận công và được thờ trong miếu Trung Hưng công thần.

    Lăng ông ở Gia Định(11).

    II.- CHỨC VỤ VÀ PHẨM PHỤC

    A/ Chức vụ

    Trên nguyên tắc, hoạn quan chỉ giữ những công việc hầu hạ trong cung. Michel Đức Chaigneau kể khi lên 8 tuổi được triệu vào cung gặp hoàng hậu và các phi tần của vua Gia Long, do một viên hoạn quan dẫn đường. Viên này mặc một chiếc áo ngắn màu lam, quần lụa trắng, chít khăn rộng bản, cung kính đi sau một quãng chứ không dám đi ngang hàng. Lần thứ nhì, khoảng hai chục tuổi, sau khi ở Pháp trở lại Việt Nam, Michel Đức lại được vua Minh Mệnh triệu vào cung hỏi han chuyện nước Pháp. Michel Đức liếc thấy trong phòng có một bọn ” đầy tớ ” chừng 15-20 tuổi, đứng ở góc phòng, tựa lưng vào tường đợi lệnh. Hễ vua ra hiệu thì lập tức quỳ dâng điếu thuốc lá đã châm sẵn và trước khi dâng phải hút thử vài hơi…

    Theo S. Baron, chúa Trịnh rất ưa hoạn quan. Những người này sau khi phục vụ độ 8 năm trong triều liền được cất nhắc ra giữ những chức quan trọng, có khi lấn át cả các đại thần có thực tài.

    Riêng chúa Trịnh Khải thì sự liên hệ với quan hoạn không phải là ít. Nguyên mẹ Trịnh Khải là Dương thị Ngọc Hoan không được Trịnh Sâm ưa. Một hôm nằm mơ thấy thần nhân cho một tấm đoạn có vẽ đầu rồng, tỉnh dậy kể cho hoạn quan Khê Trung hầu Chu Xuân Đán nghe. Hầu cho là điềm sinh quý tử, có ý giúp đỡ. Khi Sâm cho đòi Ngọc Khoan (cũng có chỗ chép là Ngọc Hoàn) vào chầu, Hầu giả cách nghe nhầm đưa Ngọc Hoan tới, Sâm không nở đuổi về, sau trách mắng thì Hầu đem chuyện kể lại, Sâm nín lặng. Sau đó Ngọc Hoan có thai sinh ra Trịnh Khải nhưng Sâm vẫn không ưa, trù trừ không muốn lập làm thế tử, chỉ định cho hoạn quan Nguyễn Phương Đỉnh làm Bảo phó… Khi Trịnh Khải mưu cướp ngôi Trịnh Cán, Sâm sai Ngô Thời Nhậm cùng bọn hoạn quan Ngạn Trung Hầu, Đường Trung Hầu, Án Trung Hầu cùng tra án(12).

    Người ta trách hoạn quan chỉ nhờ xiểm nịnh được lòng vua chúa, rồi nắm quyền chính, tác oai tác phúc…song ta đã thấy Lương Đăng làm quan to nhưng không hề tham dự quốc sự, gây bè đảng làm mưa làm gió, mà chỉ hoàn tất việc quy định mũ áo và lễ nhạc, song vẫn bị các đại thần chê trách.

    Trong Vũ Trung Tuỳ Bút có Tả Chí Hầu cũng là hoạn quan có thực tài, hiểu thuật bóp gân xương, biết hát xướng, xem tướng, vẽ truyền thần giỏi.

    Những hoạn quan tiến cống cho Trung Quốc có một số được sử sách nhắc đến :

    Minh Thái Tổ bắt ta cống nộp sư sải, gái đẹp biết đấm bóp và hoà giả (hoạn quan), sau thả sư và gái đẹp về chỉ giữ lại hoạn quan và đãi rất hậu. Năm 1405, Minh Thành Tổ mưu đồ xâm lăng, sai bọn hoạn quan Nguyễn Toán, Nguyễn Trung, Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện sai giết hết thân thuộc bọn Nguyễn Toán(13).

    Tuy nhiên, những người bị tiến cống cho Trung Quốc không phải toàn bọn bán nước lập công mà còn có những người có biệt tài như Trần Vũ và Nguyễn An.

    Minh sử chép rằng niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những văn nhân Giao Chỉ cất nhắc cho giữ chức Tri huyện hay Tri phủ, lập tuyển bọn trung quan (hoạn quan) lấy người ngay thẳng, trung hậu, mẫn cán, thông suốt, cho hầu nội cấm sảnh. Trần Vũ được tuyển vào hầu Tuyên Công, thăng chức Thái giám, sau cho đổi tên thành Vương Ngọc Cận, đi theo vua đánh Cao Hú (tức con Minh Thành Tổ, làm phản) có công to được ban đai ngọc, yên vàng, ngựa tốt, vàng lụa…lại đúc bốn quả ấn vàng khắc những chữ ” Trung can nghĩa đảm ” (lá gan trung thành, quả mật nghĩa khí), ” Kim điêu quý khách ” (quý khách đội mũ điêu vàng, tức mũ hoạn quan có con ve bằng vàng), ” Trung thành tự lệ ” (tự mài dũa lòng trung), ” Tâm tích song thanh ” (bụng dạ và hình tích đều trogn sáng).

    Theo Hoàng Minh thông ký có Nguyễn An trải 5 đời vua Minh (Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông) là người giản dị, khắc khổ, cứng rắn, liêm khiết, giỏi về mưu mẹo, tính toán, rất sở trường những công việc xây dựng. Việc tu tạo thành Bắc kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng, nhà trạm, An đều thân hành xếp đặt, tỏ ra rất có công lao. Các tơ tào trong bộ Công chỉ việc theo kế hoạch của An mà làm. Bình sinh được vua ban cho thứ gì đều đem nộp lại kho công không sót một li(14).

    Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mệnh thấy các hoạn quan đời trước chuyên quyền, lũng đoạn triều chính (có người nói vì vua ghét Lê văn Duyệt) nên năm 1836 hạ lệnh từ nay hoạn quan không được giữ những chức phẩm như các quan đại thần, làm quan cũng không được quá tứ phẩm. Sắc lệnh này được khắc bia đá để trước Quốc Tử Giám, đến năm 1918 vẫn còn ở cạnh Văn Miếu.

    Vua lại đặt ra những chức tước riêng biệt dành cho hoạn quan :

    Hạng Chức Lương tháng

    Bát gạo quan tiền

    Hạng nhất Thủ đẳng Quảng Vụ và Điển sự Thái giám 48 72

    Hạng nhì Thứ đẳng Kiểm sự và Phụng nghi Thái giám 36 60

    Hạng ba Trung đẳng Thừa vụ và Điển thảng Thái giám 36 48

    Hạng tư Á đẳng Cung sự và Hộ Thảng Thái giám 24 36

    Hạng năm Hạ đẳng Cung phụng và Thừa biện Thái giám 24 24

    3 hạng trên có quyền xin chức Nhiêu phụ cho cha, và chức Miễn nhiêu cho an hem hay cháu trai, hạng 4 và 5 chỉ được xin Miễn nhiêu.

    Vua Thành Thái không ưa hoạn quan nên thay thế bằng cung nữ. Khi vua ngự thiện (ăn) thì đầu bếp dâng mỗi người một món, đưa cho Thị vệ đem đến cho nội giám, những người này lại chuyển giao cho cung nữ quỳ dâng(15).

    B/ Phẩm phục

    * Đời Trần

    Sách Toàn Thư chỉchép hoạn quan đời Trần mặc áo xanh và từ 1306 dùng quần hai ống chứ không dùng xiêm nữa.

    Trong An nam chí lược (tr. 222) Lê Tắc viết cặn kẽ hơn :

    Các nội quan Thượng phẩm đội mũ dương thường đính ong bướm vàng, mặc phẩm phục. Bình thường thì đội khăn nhung mầu tía xen mầu biếc, làm 6 tua kết sau khăn ; đai thắt ngang để tỏ vẻ quan quý.

    Hạng Trung phẩm mũ áo sắc chế hơi giảm. Thường phục thì khăn kết tua mầu tía.

    Hạ phẩm đội mũ dương thường tía, áo tía ; khăn ngày thường có tua đen, dát ngọc, vàng, đồi mồi.

    Không dùng hốt.

    Chắp tay lạy vua.

    * Nhà Lê quy định y phục hoạn quan rất rõ ràng. Theo Lê triều chiếu lịnh thiện chính thì các chức Tổng Thái giám, Đô Thái giám, Quản đốc ty nội giám, tước quận công ăn mặc như sau :

    – Vào chầu vua đội mũ cánh chuồn, mặc áo mầu hồng, bố tử thêu hổ báo (như các hoàng tử, vương tử tước quận công), đai dát đồi mồi bịt bạc, chân đi hia tất.

    – Vào chầu phủ Chúa đội mũ ô sa(16) áo lam có vạt che sau, giây lưng kép dát ngọc.

    – Đưọc đem theo hai người hầu.

    – Khi đi đường khăn chít một, võng ba đòn sơn đen, yên ngựa sơn tía thếp thau.

    Đi ra ngoài thành thêm một lọng mầu xanh, vẽ hoa xanh có ngù rủ.

    – Áo mặc thường, bằng gấm vóc các mầu, hòm áo sơn son thếp vàng một vạch, hòm mũ sơn đen thếp chỉ vàng.

    Cấm không được vẽ rồng, phượng, kỳ lân.

    Mâm, án thư bằng tre đan, thếp chỉ bạc

    Bát đĩa Tầu bịt thau.

    *Thời nhà Nguyễn, theo sắc lệnh của vua Minh Mệnh thì mũ áo hoạn quan như sau :

    – Áo mầu lục cho các quan cao cấp, mầu lam cho những người chức thấp, bố tử mầu đỏ thêu hoa xanh lục.

    Các Thái giám thời xưa đeo một vòng lụa trắng rủ xuống hai bên ngực đến tận thắt lưng, sau này chỉ đeo một thẻ bài ngà khắc rõ chức phận.

    – Mũ Thái giám bằng phẳng ở trên đỉnh và hình bầu dục (khác với mũ các quan triều hình tròn và nóc khum khum) có dát vàng bạc theo chức tước và đính một quả bông.

    Theo Hậu Hán chí, thời xưa mũ hoạn quan có tua vàng điểm một con ve sầu và một cái đuôi chuột, ngụ ý rằng ve sầu thanh khiết chỉ sống toàn bằng sương sớm, còn chuột thì có thể len lỏi vào tất cả những chỗ rất kín đáo trong thâm cung.

    Viên hoạn quan mà Crawfurd đã gặp năm 1822 (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) tuy giữ chức ” Governor ” (Tổng trấn ?) nhưng ăn mặc rất đơn giản : áo lụa trắng trơn và khăn nhiễu cũng mầu trắng.

    Hoạn quan trong Sử Việt

    quan ao thoi phong kien 2

    III.- ĐỜI SỐNG

    Hoạn quan có hai loại :

    – Một loại sinh ra đã có khuyết tật hay bị tai nạn, như chó cắn, mà thành tật. Người xưa tin rằng những người này có số làm quan to.

    – Loại thứ nhì tự hoạn hay do cha mẹ đem con ra thiến.

    Hạng thứ nhất, khi đứa trẻ sinh ra thấy có tật, thì gia đình hay xóm làng liền khai trình xin cho lớn lên được sung chức nội thị. Khoảng 10 tuổi đứa trẻ được tiến cung, giao cho các hoạn quan già huấn luyện công việc chầu hầu trong cung.

    Hạng thứ nhì thì từ triều Lý đã có lệnh nghiêm cấm : Năm 1162, xuống chiếu kẻ nào tự thiến xử 80 trượng, thích 23 chữ vào mặt.

    Quốc triều hình luật thời Lê cũng chép : ” Ai tự hoạn xử tội lưu, ai thiến hộ hoặc chứa chấp giảm tội một bậc, xã quan không phát giác xử tội đồ (giam cầm làm khổ sai)(17).

    Sở dĩ có lệnh nghiêm cấm như thế vì hoạn quan có thể giữ những chức vụ trọng yếu, có nhiều quyền uy, giúp đỡ gia đình hay xóm làng được nên nhiều người ham. Lê triều chiếu lịnh thiện chính cho biết các nội giám sung chức Thái bảo, Thái sư, Thiếu sư, Thái phó, Thiếu phó với tước quận công thì 8 người con được phong là Quan viên tử, 7 người cháu được phong là Quan viên tôn(18).

    Đọc đến đây hẳn ai cũng lạ : đã là hoạn quan sao lại có con ? Hiển nhiên trường hợp này xẩy ra đủ nhiều để có cả một đạo luật dành cho con cháu hoạn quan. Cương mục chẳng hạn chép năm 1480 khi Nghi Dân nổi loạn, nội quan Thị hậu Phó chưởng Đào Biểu tử tiết, gia sản bị sung công. Khi Thánh Tông lên ngôi, truy tăng Đào Biểu một tư, ban cho 5 mẫu tư điền để cúng tế, lại trả điền sản bị tịch thu trước cho vợ con(19).

    Có lẽ những người này, như Lý Thường Kiệt, đã lấy vợ trước khi tự hoạn, hoặc cũng muốn có gia đình riêng, lấy một cung nữ đã bị thải hay lấy con nhà hàng phố rồi nuôi con nuôi. A. Laborde kể chuyện ở Huế xưa có một thiếu phụ lấy chồng hoạn quan nhưng ngây thơ không hiểu chồng mình bất bình thường, mãi đến khi chồng chết, đi cải giá mới rõ và đem chuyện mình tâm sự với một vài người bạn.

    Cũng theo Laborde, có một viên Đội Thị vệ bị án tử hình vì ăn ở với một hoạn quan và…sinh ra một đứa con !

    Chúa Trịnh dùng tới 4-5000 hoạn quan nhưng đến đời vua Thành Thái nhà Nguyễn vì không ưa hoạn quan nên số người hầu cận vua trước có 15 sau chỉ còn 9. Đến năm 1918 lại có lệnh cấm bổ dụng thêm hoạn quan mới, những người cũ cho tiếp tục giữ chức.

    &Tướng mạo và tính tình

    hoan quan thoi phong kien viet

    Khi nói đến hoạn quan người ta thường nhắc đến cái cằm không râu, dáng điệu ẻo lả như phụ nữ, và tính tình khó thương, ngạo mạn, vô lễ…dường như để bù lại những mặc cảm tự ty. Sau đây là hoạn quan nhìn qua con mắt các chứng nhân Việt cũng như ngoại quốc :

    – Năm 1778, Chapman, một người do công ty Ấn độ của Anh gửi sang, đã gặp ở Huế một viên hoạn quan giữ chức ” Quan Tam Quon “, quyền uy vượt cả viên ” Viceroy ” (Tổng trấn ?). Viên này có tánh hay hoạnh hoẹ, khinh người. Trước hết bắt Chapman phải đứng chờ ngoài cổng cả nửa giờ mới cho vào nhà. Vào rồi cũng không thèm ra tiếp ngay, chỉ ở trong nhà hỏi vọng ra mấy câu, mãi sau mới cho cuốn rèm lên và Chapman thấy dưới ánh nến vàng vọt một đống thịt lù lù, dị dạng, người có vẻ thấp lùn, má xệ xuống…Khi Chapman phàn nàn những người dưới quyền mình bị ngược đãi, viên Tổng trấn xin lỗi rằng ông không có quyền hành gì, mọi sự cứ điều đình thẳng với viên hoạn quan. Viên này tỏ ra rất vô lễ, chửi rủa và còn sai đem tặng vật của Chapman, một chiếc đồng hồ, ra trả lại nói rằng đồng hồ đã vỡ, trở nên vô dụng(20).

    Ngày 2/9/1822, Crawfurd đã gặp một hoạn quan giữ chức ” Governor of Saigon ” (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) và tả một cuộc gặp gỡ khá tường tận : ” Giữa phòng, trên một cái sập cao hơn thường lệ, là viên ” Tổng trấn ” ( ?) đang ngồi chễm chệ. Chúng tôi tiến lên cúi chào, ông ta cứ ngồi yên không đáp lễ. Sau đó người ta chỉ cho chúng tôi ngồi xuống dẫy ghế bên phải ông ta, ghế bên trái dành cho viên quan cao cấp bậc nhì trong phòng, những người khác đứng đằng sau hoặc ngồi trên một cái sập khác. Viên ” Tổng trấn ” già là một hoạn quan nhưng nếu không biết trước thì không thể đoán ra. Tuy cằm ông ta không có râu và giọng nói yếu ớt như đàn bà, nhưng chưa tới mức khiến người ta phải nghi ngờ. Ông ta có vẻ không quan tâm mấy tới y phục, chỉ mặc một áo lụa trắng trơn và đội một chiếc khăn nhiễu rộng bản cũng mầu trắng “. Crawfurd đem lễ vật ra tặng nhưng viên ” Tổng trấn ” từ chối nói rằng hai bên đang ở thế điều đình, tặng lễ vật bây giờ quá sớm, ông không thể nhận. Crawfurd rất phục tư cách viên ” Tổng trấn ” khi đem ôn gta ra so sánh với các quan chức người Xiêm. Nhưng vừa về đến nhà thì thấy ” Tổng trấn ” sai người đem thực phẩm tới tặng : trâu, dê, lợn, gạo vv… và nhân thể cho biết lúc nẫy quan ” Tổng trấn ” không tiện nhận quà trước mặt công chúng nhưng ngài rất vui lòng nhận mấy khẩu súng và cái ống viễn kính mà Crawfurd định biếu(21).
    Phạm Khắc Hòe, trong Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc kể rằng tháng 8 năm 1945, khi ông đi chào bà Từ cung để ra Hà Nội, thì đột nhiên một viên Thái giám già chạy đến trước mặt sụp lạy. Viên này mặt xanh như tàu lá, đầu bạc, cằm không râu, má nhăn nheo, miệng xệ xuống, mắt rưng rưng, cất giọng khàn khàn hỏi về số phận của mình sẽ đượcđịnh đoạt ra sao ? có được lĩnh lương tháng 8 hay không ? sau này sẽ làm gì ?…Hỏi ra mới biết viên này do cha mẹ thiến từ năm 12 tuổi, đời vua Thành Thái, đã gần 50 năm. Khi mới vào cung được học Tứ thư, Ngũ kinh, tập làm việc vặt, đến 20 tuổi sung chức Thừa Biện Thái giám, năm 1945 giữ chức Phụng nghi Thái giám. Nhiệm vụ chính là chuyển đạt mệnh lệnh của vua tới phi tần và khi vua ngự tới bà nào thì ghi chép ngày giờ cho đúng để phòng việc tranh chấp về sau. Từ khi vua Khải Định mất thì không phải làm việc này nữa, chỉ còn nhiệm vụ chầu hầu bà Từ cung, giúp đỡ các phi tần trong việc cúng bái, tu hành và liên lạc với bên ngoài.

    Năm 1958, cụ Vương Hồng Sển đi thăm lăng Diên Thọ (Gia Long) nhằm ngày lễ Thanh minh, tình cờ được chứng kiến một buổi tế lễ và liếc thấy nơi gian nhà sau chỗ tế có một nhóm quan thị ” rất đông “, mặc áo màu lam, đang đứng chờ tế lễ xong thì chia phần, có người đã già sụm, kẻ còn sồn sồn, người nào cằm cũng nhẵn thín không một sợi râu.

    Hoạn quan không phải người nào cũng xấu xí, ẻo lả. Trong Vũ Trung tuỳ bút, Phạm Đình Hổ cho biết Tả Chí Hầu, nội thị thời Trịnh Khương (Giang) “tướng mạo hùng vĩ, phảng phất giống Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc”.

    A. Laborde đã chụp được ảnh một viên hoạn quan 62 tuổi, một trong những người có địa vị quan trọng hồi đầu thế kỷ XX, trông coi một cái lăng, giữ gìn đồ thờ cúng và phát lương cho 9 người cung nhân già ở đó. Tiếc rằng Laborde không cho in ảnh viên hoạn quan mà chỉ cho biết mặt mũi viên này giống mặt bà già, vú cũng xệ xuống như ngực bà già.

    & Cung giám viện

    Khi các hoạn quan không phải hầu chầu thì có quyền rút về Cung giám viện. Viện này gồm 9 gian, cũng là nơi ăn học của các nội giám trẻ và là chỗ trú ngụ của gia đình hoạn quan tới thăm. Năm 1918, viện dã đổ nát chỉ còn nhà bếp, một cái miếu thờ thần và cái cổng mang hàng chữ ” Cung giám viện môn “.

    & Chùa Từ Hiếu

    Chùa xây trên một chiếc đồi nhỏ, trên đường đi đến lăng Tực Đức, khuất sau một lùm cây. Khung cảnh rất tĩnh mịch và tuyệt đẹp có suối chảy, có thông reo, chim hót, dế kêu. Bia dựng ở cổng chùa cho biết đây thuộc làng Dương Xuân, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên, núi Ngự Bình ở phía Đông Nam, Hương Giang ở Tây Bắc.

    Chùa do thiền sư Nhật Định tạo dựng, sau có ba viên nội giám về hưu đến trú và xin được triều đình trợ cấp nhiều tiền. Đến 1893, các hoạn quan tự đóng góp tiền xây lại chùa, mở rộng ra và dùng làm nhà dưỡng lão cùng nơi thờ cúng những hoạn quan đã mất. Bia dựng ở chùa ghi : ” Khi còn sống chúng tôi đến chùa tìm yên tĩnh, khi ốm đau chúng tôi về đây dưỡng bệnh và sau khi chết chúng tôi cùng được chôn cất với nhau ở đây. Dù sống hay chết, chùa cũng là nơi yên nghỉ của chúng tôi ” (22).

    nghia dia hoan quan
    Nghĩa địa của hoạn quan

    Ngay cạnh chùa là nghĩa địa của hoạn quan. Những ngôi mộ ở đây được xây cất cân đối nhau chung quanh một cái sân gạch. Năm 1918, khi Laborde tới thăm, có tất cả 18 ngôi mộ nhưng chỉ có 9 ngôi đã xây, những cái kia còn để ngỏ.

    & Tháp Bồ Đề

    Trước cửa chùa có tháp Bồ đề do thiền sư Từ Hiếu xây từ năm 1896 với sự giúp đỡ của các hoạn quan, xin được tiền trợ cấp của Thái phi. Tháp dựng để chứa những pho tượng vỡ hay những quyển kinh đã cũ nát mà người ta không được vứt đi, phải để cho chúng tự mục nát dần. Tháp chỉ có một cửa ở từng thứ hai, muốn ném bỏ vật gì vào tháp phải bắt thang.

    Tháng giêng, 1994

    Chú thích

    1. Toàn Thư I, tr. 190.

    Đại Việt Sử lược tr. 117 chép là cửa Quảng Phúc, chứ không phải Quang Phục, nằm ở phía tây Long Thành, cửa Đại Hưng phía nam, cửa Tường Phù phía đông, cửa Diệu Đức phía bắc.

    2. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt

    3. Cương Mục V, tr. 30 và Toàn Thư II, tr. 25

    4. S. Baron, tr. 64

    5. Đến 1442, Đinh Thắng cũng bị giết vì trước khi chịu tử hình Nguyễn Trãi tỏ ý hối tiếc đã không nghe lời Đinh Thắng, Đinh Phúc.

    6. Cương Mục IX, tr. 67 và Toàn Thư III, tr. 112-125.

    7. Cương Mục XVII, tr. 31 và Tục Biên tr. 159 và Vũ Trung tuỳ bút.

    8. Cương Mục XIX, tr.32 và Tục Biên tr. 329.

    Hoàng Lê nhất thống chí chép là Nguyễn Quang Đỉnh.

    9. Tục Biên tr. 329-404, Cương Mục XIX, tr. 56-7.

    10. Nếu Lê văn Duyệt đúng là viên “Governor” của Saigon mà Crawfurd đã gặp năm 1822 thì sự thanh liêm, không nhận lễ vật, chỉ là bề ngoài. (Xin xem phần III, Đời sống).

    11. Đại Nam thực lục chính biên V, tr. 132.

    Laborde, ” Les eunuques à la cour de Huê “, BAVH

    Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển.

    12. Hoàng Lê nhất thống chí, tr. 17.

    13. Toàn Thư II, tr. 216.

    14. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, tr. 254-56.

    15. P. Pasquier, L�Annam d�autrefois, tr. 81.

    16. Mũ ô sa kết bằng tóc có thêu chữ nổi màu đen (Lê triều chiếu lịnh thiện chính, 199).

    17. Quốc triều hình luật, tr. 119.

    18. Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr. 29.

    19. Cương Mục X, tr. 63-4.

    20. A. Lamb, tr. 112-18.

    21. Crawfurd, tr. 216-17.

    22. A. Laborde, ” Les eunuques à la cour de Huê “.

    Sách tham khảo :– BARON Samuel, Description du royaume du Tonkin, traduit par H. Deseille.

    – CHAIGNEAU Michel Đức, Souvenirs de Huế, Paris 1867.

    – CHAPMAN ” The Chapman mission, 1778 “, trích trong The mandarin road to old Huế của A. Lamb, London, Chatto & Windus, 1970.

    – CRAWFURD John, Journal of an Ambassy from the Governor General of India to the Courts of Siam and Cochinchina. London: Henri Colburn, 1828.

    – HOÀNG Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Saigon, Viện Đại học tái bản lần thứ nhất, 1966.

    – LABORDE A., Les eunuques à la cour de Huế, Bulletin des amis du vieux Huế, N°2, 5è année, Avril-Juin 1918.

    – LÊ Quý Đôn, Kiến văn tiệu lục, Hà Nội : KHXH, 1977.

    – NGÔ Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội, KHXH, 1993.

    – NGÔ Thì Chí, Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch của Ngô Tất Tố. Saigon : Phong trào Văn hoá tái bản, 1969.

    – NGUYỄN Huyền Anh, Việt Nam danh nhân từ điển, Zieleks, 1981.

    – PASQUIER P., L’Annam d’autrefois, Paris : Société des éditions, 1929.

    – PHẠM Đình Hổ, Vũ Trung tuỳ bút, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch, Đông Nam Á tái bản.

    – PHẠM Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt bắc, Huế : Thuận Hoá, 1987.

    – TÔN NỮ Quỳnh Trân chủ biên, Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh : Văn hoá Thông tin, 1993.

    – TRƯƠNG Hữu Quýnh, PHAN Đại Doãn, Danh nhân lịch sử Việt Nam, I, Hà Nội : Giáo dục, 1987.

    – VƯƠNG Hồng Sển, Hơn nửa đời hư. Hồ Chí Minh : Tổng Hợp, 1993.

    1. Đại Nam thực lục chính biên, Hà Nội, Viện Sử học, 1962-78.

    2. Đại Việt sử ký tục biên. Hà Nội : KHXH, 1991. Dịch giả : Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hưng.

    3. Đại Việt sử lược. Dịch giả : Nguyễn Gia Tường. Hồ Chí Minh, 1993.

    4. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục. Hà Nội : Viện sử học biên dịch, 1960.

    5. Lê triều chiếu lịnh thiện chính. Saigon. Trường Luật khoa, 1961. Dịch giả : Nguyễn Sĩ Giác.

    6. Quốc triều hình luật, Hà Nội : Pháp lý, 1991. Dịch giả : Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhị.

    Nguồn bài đăng