Category: Sài gòn – Hòn ngọc Viễn Đông

Sài gòn – Hòn ngọc Viễn Đông

  • Tại sao gọi Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông?

    Cụm từ “Hòn ngọc Viễn Đông” đầu tiên sử dụng cho toàn cõi vùng đất Đông Dương, sau này không ít người ghép nó với danh xưng Sài Gòn là vùng đất đầu tiên người Pháp chiếm được ở Đông Dương giữa thế kỷ 19.

    Ăn chơi về đêm tại Sài Gòn – “Hòn ngọc Viễn Đông” thời Pháp.

    Từ tham vọng ban đầu của các đề đốc hải quân Pháp muốn biến Sài Gòn thành một tiền đồn thịnh vượng, kinh qua hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, thành phố mang tên mới Hồ Chí Minh đang vượt lên thành trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam và đang có xu thế hình thành một đại đô thị nằm tại ngã ba đường giao thương quốc tế hàng đầu ở Đông Nam Á.

    Tôi vào học ở Sài Gòn giữa những năm 1950. Ở khu trung tâm thành phố, các ngôi biệt thự vẫn là các villa kiểu Pháp giống như ở Đà Nẵng hoặc Huế nơi tôi lớn lên, nhưng thật sự tôi choáng ngợp trước các tòa dinh thự công quyền đồ sộ và uy nghi của một thủ phủ, to lớn hơn rất nhiều công trình đã từng nhìn thấy trước đó, với các đại lộ rộng, trồng cây thẳng tắp, ngăn nắp, trật tự, công viên xinh đẹp có mặt khắp nơi…

    Đây cũng là lần đầu tiên tôi nghe đến danh xưng và phần nào cảm nhận hết ý nghĩa của nó: Sài Gòn “Hòn ngọc Viễn Đông”.

    “Hòn ngọc Viễn Đông”?

    Trước tiên thử xét đến cụm từ “Hòn ngọc Viễn Đông”. Trong quyển sách France in Indochina: Colonial Encounters (Nước Pháp ở Đông Dương: các cuộc đụng đầu thuộc địa), xuất bản năm 2001, tiến sĩ Nikki Cooper, Đại học Bristol, giải thích quá trình Pháp chiếm Đông Dương làm thuộc địa như sau:

    “Quá trình thực dân hóa nhiều vùng lãnh thổ khác nhau mà sau này tạo nên xứ Đông Dương thuộc Pháp diễn ra trong nhiều năm.

    Người Pháp trước tiên chinh phục ở phần đất phía nam tại Nam kỳ trong thập niên 1860. Suốt 30 năm tiếp theo, nước Pháp đã vững vàng tiến lên phía bắc, chiếm thêm Trung kỳ, Bắc kỳ và cả Campuchia lẫn Lào. Các vùng đất này đã được chính thức gộp chung lại dưới tên gọi “Đông Dương thuộc Pháp” vào năm 1885.

    Mong muốn tạo lập một đế chế thuộc Pháp tại Đông Nam châu Á ấy, đã phần nào tạo động lực ganh đua với đế quốc Anh. Đông Dương thuộc Pháp được dự kiến sẽ cạnh tranh với Ấn Độ thuộc Anh.

    Pháp tạo ra “Hòn ngọc Viễn Đông” để đối ứng với Ấn Độ mà Anh “tấn phong” là “viên châu báu trên vương miện”.

    Như vậy cụm từ “Hòn ngọc Viễn Đông” đầu tiên sử dụng cho toàn cõi vùng đất Đông Dương, sau này không ít người ghép nó với danh xưng Sài Gòn là vùng đất đầu tiên người Pháp chiếm được ở Đông Dương giữa thế kỷ 19.

    Danh xưng có lẽ muốn vừa nói đến thực chất tươi đẹp và thịnh vượng của Sài Gòn, cũng vừa mang tính chất tượng trưng lẫn định hướng phát triển.

    Ý đồ ban đầu của thực dân Pháp là đầu tư mạnh mẽ vào Sài Gòn, có quy hoạch xây dựng phù hợp để thành phố này trở thành thủ phủ của Đông Dương; nhưng thật sự là không có căn cứ nào để nói Sài Gòn từng là thành phố được đánh giá số 1 của cả khu vực Đông Nam Á vào thời điểm đó.

    Logo (huy hiệu) của TP Sài Gòn từ năm 1870.

    Bừng sáng giữa vùng rừng ngập nhiệt đới

    Xưng tụng Sài Gòn là “Hòn ngọc Viễn Đông” còn mang nhiều yếu tố tâm lý của khách lữ hành phương Tây.

    Anh bạn kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn có lối lý giải khá độc đáo: “Sau chuyến hải hành kéo dài cả tháng trời, từ hải cảng Marseille miền nam nước Pháp qua Địa Trung Hải, xuyên kênh đào Suez vượt Ấn Độ Dương sóng to gió lớn, lách qua eo biển Malacca vào vịnh Ghềnh Rái, không khó để suy ra tâm trạng mệt nhọc, buồn chán của khách lữ hành, cả tháng ròng chỉ thấy trời và nước.

    Cung cuối chặng đường khi trạng thái rã rời đã lên đến đỉnh điểm, chuyến hải trình theo sông Lòng Tàu xuyên qua rừng đước Cần Giờ, một thứ rừng ngập mặn nhiệt đới mà nhiều người châu Âu chưa gặp bao giờ, cảm giác xa lạ tưởng như càng đi càng xa thế giới văn minh phương Tây quen thuộc.

    Trong tâm trạng cùng cực của cô đơn ấy, bỗng một chiều bừng sáng một thành phố mang nét phương Tây ngay khi tàu cập cảng Sài Gòn.

    Ngủ khách sạn Continental, khách sạn Majestic, ăn thịt bò beefsteak, uống rượu chát vùng Bordeaux, thưởng thức xì gà La Habana, săn bò rừng, lấy da cọp, hút thuốc phiện và chơi gái xuân thì, với thủy thủ tàu viễn dương và đám thực dân đến từ Viễn Tây, Sài Gòn được ngợi ca là “Hòn ngọc Viễn Đông” đâu có gì lạ…

    Dĩ nhiên, nó hoàn toàn không là hòn ngọc với thợ thuyền xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án nô lệ, kẻ mất nước!

    Vậy thì “Hòn ngọc Viễn Đông” với những dấu ấn thuộc địa chẳng có gì đáng tự hào sao lại là mơ ước của một Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh năng động ngày hôm nay, từng tạo nên những giá trị tiền đề cho công cuộc đổi mới đất nước cách đây 30 năm?”.

    Như vùng đất hứa

    Huy hiệu Sài Gòn đã nói lên ý hướng phát triển của thành phố thời thuộc địa Pháp. Huy hiệu (logo) đó khắc hình con cọp và cây cảnh Sài Gòn, dưới ghi câu tiếng Latin “Paulatim Crescam” (“Từ từ tôi sẽ phát triển lên”) do Hội đồng thành phố Sài Gòn duyệt năm 1870, làm phù điêu treo ở phòng khánh tiết Dinh xã Tây (Tòa thị chính Sài Gòn) vào năm sau đó. Từ ấy, Sài Gòn không chỉ phát triển từ từ, mà còn phát triển vượt bậc vào hàng nhất nhì trong số các thương cảng thuộc địa Pháp.

    Thời gian này nước Pháp đang kinh qua đế chế Napoleon III với nhiều tham vọng thi đua cùng các cường quốc châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ… chiếm lĩnh thuộc địa.

    Ý đồ này càng mạnh mẽ hơn với sự trỗi dậy của tầng lớp tư sản công nghiệp thời cộng hòa khát khao các nguồn nguyên liệu, thị trường các năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.

    Một khi đã chiếm lĩnh toàn bộ Đông Dương, người Pháp xây dựng Sài Gòn thành thủ phủ phía Nam, chủ yếu nhằm khai thác nguồn tài nguyên, nhân lực và thị trường rộng lớn một vùng đất gồm Đông Dương, Đông Nam Á và cả miền Hoa Nam của Trung Quốc. Sài Gòn đón nhận những con người năng động nhất đến từ khắp nơi, tìm cách làm giàu ở thương cảng lớn này.

    Vết tích kiến trúc nhà cửa của họ hiển hiện khắp nơi: từ mạng lưới ngõ xóm của người Việt, nhà dãy dạng “shophouse” (nửa ở nửa buôn bán) của Hoa kiều Hong Kong, Singapore, Hoa Nam, phố “bazaar” (cửa hàng buôn và ở) của người Chà Chetty (Nam Ấn Độ), rồi người Java, Mã Lai, người Tagal (Philippines), phố Tây, đặc biệt là dạng villa vườn của người Pháp, người Bỉ, người Đức…

    Sài Gòn từ thuở ban đầu đã được thể hiện như một khát vọng, một ý chí vươn lên của đế quốc Pháp. Mong rằng hiện nay “Hòn ngọc Viễn Đông” sẽ không còn là mong ước, ảo vọng mà trở thành một mục tiêu để hướng tới của người TP.HCM!

    Những mốc lịch sử

    1698: Chúa Nguyễn cho lập phủ Gia Định,  dinh Phiên Trấn.

    1772: Xây lũy Bán Bích ngăn quân Xiêm ở mạn Tây, đào kênh Ruột Ngựa nối liền đồng bằng sông Cửu Long.

    1790: Xây dựng Gia Định thành theo kiểu phòng thủ Vauban.

    1859: Quân Pháp hạ thành Gia Định.

    1862: Phương án quy hoạch Coffyn cho thành phố Sài Gòn.

    1868: Xây cất Dinh thống soái Nam kỳ.

    1923: Kiến trúc sư Hébrard chỉnh lý quy hoạch 
 Sài Gòn.

    1930: Sáp nhập Chợ Lớn vào thành phố Sài Gòn.

    1954-1975: Sài Gòn, thủ đô chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

    1975: Thành phố được giải phóng.

    1976: Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh, rộng trên 2.000km2, bao gồm cả Sài Gòn – Chợ Lớn và tỉnh Gia Định cũ.

    Theo KTS Nguyễn Hữu Thái/Tuổi trẻ

  • Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

     Không một bưu ảnh, bưu thiếp xưa nào lẫn các văn bản xưa của người Pháp ghi tên chợ Bến Thành trên cả ngôi chợ hiện nay lẫn ngôi chợ cũ trên đường Nguyễn Huệ

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Một bưu ảnh chợ Bến Thành cũ  trên đại lộ Charner (nay là Nguyễn Huệ) cuối thế kỷ 19. Lúc này, kinh Lấp (kinh Charner) đã bị lấp (1887) và thay bằng đường rầy xe điện (tramway). Xa xa là tòa nhà trụ sở UBND TP.HCM hiện nay. Góc phải nhà thờ Đức Bà đã có hai tháp chuông nhọn (gắn năm 1895). bưu thiếp ghi marché (chợ) – boulevard (đại lộ) – Ảnh tư liệu

    Khu chợ Bến Thành cũ trên đường Nguyễn Huệ hiện nay, người Pháp gọi là chợ trung tâm, chợ chính (marché central). Thậm chí chỉ ghi chợ.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Mặt sau của chợ Bến Thành cũ trên Hồ Tùng Mậu hiện nay năm 1908, dù chỉ 2, 3 năm sau chợ đã dẹp, sau gần 50 năm hoạt động (từ 1860), trên góc bưu ảnh vẫn chỉ ghi trống không “(khu vực) cạnh, gần chợ” (près marché) – Ảnh tư liệu

    Nhưng vẫn có một vài tấm “mạnh dạn” ghi chợ Sài Gòn như trong ảnh dưới đây, khi chỉ ít lâu sau nó sẽ bị dẹp để chuẩn bị sang vị trí ngôi chợ Bến Thành hiện nay đang chuẩn bị xây dựng.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Ảnh chụp năm 1910, những ngày cuối cùng khi dẹp ngôi chợ cũ này, tấm bưu ảnh hiếm hoi này ghi tên “Chợ Sài Gòn” (Le marché de SAIGON)

    Kỳ lạ hơn là ngay từ khi mở chợ năm 1914 đến 1954 thời thuộc Pháp, chưa bao giờ trước cửa chợ Bến Thành hiện nay lẫn ngôi chợ cũ trên đường Nguyễn Huệ có bảng ghi tên chợ, trừ một giai đoạn ngắn sau năm 1963 có bảng ghi tên chợ Quách Thị Trang (!).

    Việc do dự càng rõ khi mới mở chợ Bến Thành hiện nay (1914), có bưu ảnh ngôi chợ mang tên rất chung chung: tòa nhà trung tâm (Les Halles Centrales), có khi là chợ lớn (grand marché – không viết hoa kiểu tên riêng).

    Nhưng đa số ghi cẩn thận một cách… chung chung: Marché Central (chợ trung tâm, hay chợ chính).

    Xin nói rõ: đây là tên gọi trên bưu ảnh, bưu thiếp chứ cổng chợ không hề treo bảng tên như các chợ khác lúc ấy và hiện nay.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Bưu ảnh chợ Bến Thành năm 1921 vẫn ghi Tòa nhà trung tâm (Les Halles Centrales)

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Bưu ảnh chợ Bến Thành thập niên 1920 ghi “Sài Gòn, một ngày ở Chợ Lớn ” (A Saigon, un jour de grand marché) – Ảnh tư liệu

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Dòng chữ trên bưu ảnh thập niên 1940: Sài Gòn – chợ trung tâm/chợ chính – Ảnh tư liệu

    Càng kỳ lạ hơn là sau khi tiếp quản ngôi chợ Bến Thành hiện nay từ người Pháp, chính quyền Sài Gòn cho đến năm 1975 cũng vẫn không hề treo bảng tên chợ ở cổng chợ.

    Chỉ một thời gian ngắn sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Sài Gòn lúc ấy đặt các bảng hiệu tạm bốn cạnh của đông, tây, nam bắc chợ Bến Thành với tên chợ là Quách Thị Trang để ghi nhận cô nữ sinh Quách Thị Trang đã ngã xuống trong phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.

    Nhưng rồi bảng tên chợ Quách Thị Trang bị lặng lẽ gỡ đi lúc nào không rõ…

    Và ngôi chợ lớn nhất Sài Gòn này lại tiếp tục không có bảng tên chợ như hồi nó mới khai thị.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Mặt tiền chợ Bến Thành trước năm 1975 không hề có bảng tên chợ – Ảnh tư liệu

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Có một thời gian ngắn sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Sài Gòn đặt một bảng hiệu tạm với tên chợ là chợ Quách Thị Trang (bảng tên màu trắng trên cổng chợ năm 1965 –Ảnh tư liệu

    Nghĩa là dường như người Pháp lẫn chính quyền Sài Gòn vẫn khá rụt rè đặt tên và gọi tên ngôi chợ lớn nhất Sài Gòn này.

    Thế là tên chợ được ghi chép đủ tên trên văn bản lẫn trong các bưu thiếp, bưu ảnh: nào là chợ Charner (vì nằm trên đường Charner), chợ trung tâm, tòa nhà trung tâm, chợ Sài Gòn, thậm chí cả chợ Vải (kênh Charner trước khi lấp dân gọi là kênh Chợ Vải), chợ (trống không -!)… trừ chợ Bến Thành.

    Bí ẩn ở đây là gì?

    Người Sài Gòn – Gia Định xưa vẫn gọi là chợ Bến Thành

    Có một điều cần khẳng định: ngôi chợ cũ trên đường Charner lẫn chợ Bến Thành hiện nay không hề xây dựng lại trên nền chợ Bến Thành xưa mà là những ngôi chợ được xây mới trên vị trí mới hoàn toàn.

    Và chủ đầu tư xây dựng cũng không bao giờ gọi gọi cả hai ngôi chợ (cũ và mới) này là chợ Bến Thành.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Vị trí chợ Bến Thành cũ trong bản đồ Sài Gòn (Nam kỳ) năm 1878. Bản đồ này cuối đường Charner chưa có tòa nhà trụ sở UBND TP.HCM hiện nay (lúc ấy chưa xây dựng) và khu vực chợ Bến Thành hiện nay còn là ao/đầm Bồ Rệt – Đồ họa: T.Thiên

    Bất chấp điều này, người Sài Gòn – Gia Định xưa vẫn gọi đó cả ngôi chợ cũ trên đường Nguyễn Huệ đến ngôi chợ mới hiện nay mà chúng ta biết với tên gọi: chợ Bến Thành, một tên gọi đi vô ca dao hẳn hoi.

    Cụ thể năm 1904, Sài Gòn gặp một cơn “bão năm Thìn” nổi tiếng rất lớn, chết hàng ngàn người, ca dao xưa đã gọi tên chợ Bến Thành chỉ ngôi chợ trên đường Charner: Bến Thành nóc chợ cũng bay – đèn khí (xưa người ta thắp đèn trên đường phố ban đêm bằng sáng bằng khí đá) nó ngã nằm ngay cùng đường.

    Rồi khi ngôi chợ trên đường Charner dời sang khu vực hiện nay năm 1914, ca dao xưa ghi nhận: Chợ Bến Thành dời đổi – Người sao khỏi hợp tan – Xa gần giữ nghĩa tào khang – Chớ ham quờn quới (quyền quý) mà đá vàng phụ nhau.

    Và một câu ca dao nhiều người biết khi nói đến tiếng còi tàu gần chợ Bến Thành: Mười giờ tàu lại Bến Thành – Xúp lê còi thổi bộ hành lao xao.

    … Có khá nhiều ca dao xưa nhắc tên chợ Bến Thành như vậy. Và lòng người thuở ấy đã ghi lại bằng văn thơ hẳn: trong Nam kỳ phong tục diễn ca (xuất bản năm 1909 – trước khi dời chợ sang nơi mới), tác giả Nguyễn Liên Phong đã dành hơn 50 câu thơ nói về ngôi chợ này: Bến Thành chợ rộng tứ vi – Mấy cửa hàng xén ở thì quanh năm – Chỗ ăn, chỗ ở chỗ nằm….

    Thậm chí, khi dời sang nơi mới hiện nay, người dân gọi ngay đó là chợ Bến Thành: Chợ Bến Thành mới – Kẻ lui người tới – Xem tứ diện rất xinh – Thấy em tốt dáng tốt hình – Chẳng hay em có chốn duyên tình hay chưa?

    Xin nói rõ: đó là cách gọi tên của người Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn xưa về buổi đầu tiên của hai ngôi chợ.

    Phải chăng đó là cách người Sài Gòn – Gia Định xưa lưu luyến một ngôi chợ có thật trong buổi đầu Sài Gòn – Bến Nghé – Gia Định xưa?

    Nhiều người sinh ra và lớn lên sau này, nhất là những người xứ khác đến Sài Gòn một thời gian (tức người nhập cư), cũng nói tên chợ thông qua cách gọi của người Pháp và cho tới năm 1975 đã gọi đó là chợ Sài Gòn: Chợ Sài Gòn cẩn đá – Chợ Rạch Giá cẩn xi mon (ximăng) – Giã em ở lại vuông tròn – Anh về xứ sở không còn ra vô (hoặc: Anh về ngoài nớ, khó còn ra vô).

    Hoặc: Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy – Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa – Viết thơ thăm hết nội nhà – Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.

    Hoặc: Chiều nay chắc áo xa bâu (túi áo) – Chợ Sài Gòn anh ở, còn huyện Tổng Châu em về.

    Đến năm 1975, người Sài Gòn cũng như các nơi cũng quen gọi phần sót lại của ngôi chợ trên đường Nguyễn Huệ là chợ Cũ và chợ Bến Thành là chợ Mới;  sau này khi tên chợ Bến Thành ít nhiều phôi phai theo thời gian thì gọi là chợ Mới Sài Gòn hoặc chợ Sài Gòn.

     

    CÙ MAI CÔNG/TTO

  • Những hình ảnh đặc biệt về Sài Gòn tháng 5 năm 1975

    Những hình ảnh đặc biệt về Sài Gòn tháng 5 năm 1975

    Màu cờ đỏ và màu áo xanh của các chiến sĩ Giải phóng tạo nên nét đặc trưng của các đường phố Sài Gòn tháng 5 năm 1975.

    Các chiến sĩ “vi vu” trên đường phố Sài Gòn, ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lê Lợi.

    Các chiến sĩ Giải phóng đi tuần tra trên đường Lê Lợi.

    Bộ đội Giải phóng ngồi cùng người dân ở vòng xoay Ngã bảy Lý Thái Tổ.

    Chiến sĩ trẻ trên chiếc xe Honda.

    Bộ đội Giải phóng nói chuyện với dân chúng phía ngoài Dinh Độc Lập.

    Những lá cờ của chính quyền mới được người dân bán trên khắp các tuyến phố.

    Người phụ nữ và lá cờ đỏ sao vàng.

    Cậu bé này đã bán được một lá cờ.

    Những lá cờ được bày bán ở một hiệu may trên đường Lê Lợi.

    Trên đường Lê Lợi.
  • Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa

    Đêm rằm mười sáu trăng treo

    Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu
    Năm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
    Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Đất Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải rộng trên diện tích 1,250 ha.

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài, tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
    Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu “dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết 24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
    Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.

    Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt. Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu.
    Người Pháp gọi trái sầu riêng là Durian, hay Durion. Người Việt mình gọi là sầu riêng, và phải chăng tiếng “sầu riêng” do ta đọc trại từ tiếng “Djoerian” của người Malaysia mà ra chăng? Trái sầu riêng không giống trái mít như có người lầm tưởng!
    Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus, hay Durio Capparis thuộc họ thảo mộc Malvacées hay Bombacacerae, cùng họ với cây gòn- gạo, cây bông vải. Bổ tách trái sầu riêng ra, bên trong có nhiều múi như trái gòn, trái bông vải.
    Cây sầu riêng nguyên thủy mọc ở rừng Malaysia, người ở đây gọi là cây Djoerian. Người Tàu sang Malaysia buôn bán, họ mang hột về trồng tại Ấn Độ, Thái Lan, Cambodia. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, có một số cố đạo truyền giáo Gia Tô theo vô xứ Lái Thiêu, và những nhà truyền giáo nầy đã mang nhiều giống cây trái lạ từ các xứ khác vào đây, trong đó có cây sầu riêng.Người Lái Thiêu kể lại, vào năm 1890 có cố đạo người Pháp tên là Cernot đem hột sầu riêng từ xứ Nam Dương về trồng ở họ đạo Tân Quy. Có lẽ đây là cây sầu riêng đầu tiên của Lái Thiêu?

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Cây sầu riêng cao lớn tới 20m. Lá hình bầu hơi dài, hoa mọc ở nhánh, trái to, vỏ có gai rất nhọn. Trái cho nhiều múi, mỗi múi có từ 1 đến 5 hột như hột mít. Hột có bao bọc một lớp cơm mềm, màu trắng vàng óng như màu mỡ gà, giống như múi mít mật, mít ráo.
    Sầu riêng chín có mùi rất đặc biệt, gọi là mùi sầu riêng. Mùi xuất phát từ lớp cơm sầu riêng, bay xuyên qua vỏ tỏa ra ngoài. Mùi sầu riêng mạnh hơn mùi mít, người thích thì khen là thơm, ai không ưa thì cho là mùi “khó chịu”. Nói gì thì nói là hễ đã “chịu ăn” sầu riêng rồi thì thấy nó ngon-bùi-béo-thơm và ghiền luôn …
    Cây sầu riêng trổ bông ba đợt trong một năm, cho 60 đến 90 trái. Từ khi trổ bông đến khi trái đậu là 20 đến 25 ngày, và từ ngày trổ bông đến ngày kết trái và chín là 5 tháng. Mùa sầu riêng từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Sầu riêng khi “chín mùi” thì tự nhiên ban đêm rụng xuống gốc. Chủ vườn không ai để trái chín mùi cả, mà cắt sầu riêng trước khi chín, nhiều khi trái đem đi bán hãy còn xanh là vậy.
    Mua sầu riêng phải là “người chuyên môn” mới biết trái sầu riêng nào ngon. Sầu riêng chín già bao giờ cũng ngon hơn trái non đem “dú ép” cho chín giả. Trái già nhìn vỏ có màu vàng đậm, gai nở cách xa nhau, gay to và đều. Trái vỏ còn xanh thì phần nhiều ruột chưa chín hết, cơm mỏng và không mềm. Cho nên khi mua,có người đòi người bán khoét một lỗ – gọi là thử: coi màu sắc, coi cơm cứng hay mềm, nếm ngọt lạt … Vây mà nhiều lúc vẫn bị lầm!
    Có người cho rằng sầu riêng ăn rất bổ, giúp nhuận tràng, ăn vô thấy hết mệt nhọc.Những người mà da khô hay nứt nẻ, có gai, nhất là phụ nữ, ăn nhiều sầu riêng sẽ làm cho da nhẵn mịn. Ngày xưa phụ nữ ở Malaysia thường lấy cơm của trái sầu riêng và mỡ của trái bơ làm thuốc xoa bóp cho da trở nên mịn, đẹp, chắc và bóng mịn.
    Măng cụt Lái Thiêu cũng là trái cây níu kéo người Sài Gòn.
    Măng cụt loại trái cây được xem là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới, trái có hình dáng đẹp dễ thương và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Trái măng cụt chín có màu tím sẫm nhìn bắt mắt, bổ ra bên trong màu trắng tinh gợi cảm, hương thơm dịu mát quyến rủ, và bạn có thể ăn no mà không sợ đầy bụng.
    Măng cụt Lái Thiêu trồng theo kỷ thuật cách 6-7m/cây theo hình vuông, tàn cây không được giáp nhau nên phải tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Măng cụt được trồng từ hột cũng có đặc tính giống như cây mẹ, độ 8 – 10 tuổi mới cho trái. Cây măng cụt trổ bông thay lá vào tháng 2, tháng 3. Mùa trái chín từ tháng 5 đến tháng 7.

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì măng cụt (Garania Mangostana Linn) là 1 trong 10 “siêu trái cây”, vì măng cụt là sự kết hợp hoàn hảo về nhiều mặt như:hương vị thơm ngon đặc sắc, hình dáng và màu sắc đẹp mắt, giàu dưỡng chất, có khả năng chống oxy hóa và giúp cơ thể chống lại được nhiều bệnh tật. Vỏ măng cụt được xắt lát, sấy khô, rồi nghiền thành bột trị bệnh kiết lỵ.
    Măng cụt không chỉ có ở Lái Thiêu miền Đông, mà còn được trồng vùng Lục Tỉnh như Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, và trong đó Bến Tre măng cụt trồng xen trong vườn dừa lão. Hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,500 ha đất trồng măng cụt, chiếm 77% diện tích cả nước vì ở Bến Tre cây măng cụt phát triển rất tốt.

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Giai thoại kể rằng vào đầu thế kỷ 17, Lái Thiêu bấy giờ còn là một vùng đất hoang với bạt ngàn rừng rậm. Trong số những người Minh Hương đầu tiên đến lập nghiệp ở Lái Thiêu, có gia đình của một người đàn ông họ Lục làm nghề gốm. Con trai của ông là Lục Thành Tài đã đem lòng yêu một cô gái người Việt, nhà ở bên kia sông Rạch Tra. Hàng ngày, cô gái thường chèo ghe, chở mắm, khô đến bán cho lò gốm.Gia đình hai bên biết được, đều ngăn cấm nhưng hai người vẫn quyết tâm tìm đến nhau. Cuối cùng, mối tình của họ đã phải kết thúc bằng hai cái chết bi thương.Sau đó, trên mộ hai người mọc lên một loài cây lạ, trái của nó có vỏ ngoài xù xì, gai góc nhưng bên trong thì thơm ngon đến lạ lùng. Người dân địa phương đã đặt tên cây là sầu riêng để tưởng nhớ tới mối tình chung thuỷ của đôi trai gái và Lái Thiêu cũng nổi danh về trái cây từ đó.
    Cây sầu riêng cao trên 20m, trái nặng từ 2 – 5kg, khi chín tự rụng xuống. Điều kỳ lạ là trái sầu riêng chỉ rụng vào ban đêm nên không hề có trường hợp rơi vào đầu người. Người cho đó là do sự linh nghiệm của chàng trai Minh Hương và cô gái Lái Thiêu.

    Nguồn: Vietnamarchitecture

  • Ngập nước, kẹt xe ở Sài Gòn xưa

    60 năm trước ôtô xếp hàng dài, nước cũng ngập nửa bánh xe trên các tuyến đường ở trung tâm thành phố.

    Ngập nước, kẹt xe đang là vấn đề nhức nhối của TP HCM do dân số tăng cao nhưng hạ tầng không đáp ứng kịp. Tuy nhiên, 50-60 năm trước Sài Gòn cũng thường xảy ra ùn tắc.

    Trong ảnh là đường Lê Lợi gần chợ Bến Thành năm 1969. Ảnh do Cittmeyer chụp.

    Kẹt xe ở công trường Diên Hồng trước chợ Bến Thành mà nay là công trường Quách Thị Trang (quận 1). Nhiều người thời đó sợ nhất là qua khu vực này vào tầm 17-18h hằng ngày. Có đêm Noel bị kẹt 4 tiếng tại đây.

    Tuyến đường ken dày ôtô ở trung tâm. Ông Tạ Vũ Tốn (78 tuổi) sống ở Sài Gòn từ nhỏ cho biết việc kẹt xe ở thành phố ngày xưa thường diễn ra trong các dịp lễ, Tết.

    “Những dịp này bà con mình hay ra đường chơi lễ, ngắm phố phường nên mới kẹt. Một năm cũng đôi ba bận thôi. Xe kẹt chủ yếu quanh chợ Bến Thành, nơi nhộn nhịp nhất nhì thành phố hồi đó”, ông Tốn hồi tưởng.

    Ôtô xếp hàng dài vì không có lối đi ở đường Hồng Thập Tự năm 1969 (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay). Đường này hiện vẫn ùn ứ vì lưu lượng xe qua lại đông đúc.

    Đường phố Sài Gòn bị ngập khi mưa lớn từ 60 năm trước. Trong ảnh là góc đường Pasteur – Lê Lợi (quận 1).

    Người dân cưỡi xe vượt con đường Tổng Đốc Phương (nay là Hồng Bàng) đã biến thành sông.

    Nước ngập nửa bánh xe máy. Tuy nhiên tình trạng ngập ở thành phố 50 năm trước không nặng như hiện nay.

    “Ngập nước ở Sài Gòn xưa chủ yếu do mưa kết hợp triều cường nhưng ngập không gây ảnh hưởng nghiêm trọng như hiện nay. Ngày trước dân số thấp, đất đai còn nhiều nên việc thoát nước cũng tốt hơn”, một chuyên gia chia sẻ.

    TP HCM cũng có nhiều dự án, giải pháp để chống ngập, kẹt xe nhưng do tốc độ phát triển nhanh, dân số cao nên vẫn chưa giải quyết triệt để.

    Sơn Hòa

  • Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Bảo tàng chứng tích chiến tranh (quận 3) vốn là chùa Khải Tường – nơi vua Minh Mạng được sinh ra năm 1791, khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi.

    Theo sách Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Saigon – TP HCM 1600-1992ấn hành năm 2001, Khải Tường là ngôi chùa tọa lạc trên gò cao tại ấp Tân Lộc, huyện Bình Dương, thuộc thành Gia Định xưa. Ban đầu, đây là am nhỏ do Thiền sư Phật Linh – Ý Nhạc lập năm 1744. Khải Tường và chùa Từ Ân gần đó (ở vị trí trong Công viên Tao Đàn hiện nay) là 2 chùa cổ của Sài Gòn, nổi tiếng vì là nơi vua Gia Long từng ẩn náu quân Tây Sơn. Trong đó, chùa Khải Tường chính là nơi hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng) chào đời.

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Chùa Khải Tường khoảng năm 1871-1874. Ảnh tư liệu.

    Năm 1788, nội bộ Tây Sơn có nhiều mâu thuẫn, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh giành lại được Gia Định để củng cố lực lượng cũng như xây dựng thành trì, biến nơi đây thành trung tâm chính trị của triều Nguyễn.

    Hai năm sau, trong lúc thành Gia Định mới được xây dựng, hoàng gia và bộ máy quan lại lúc này ở Gia Định phải tá túc ở hai ngôi chùa lớn nằm gần nhau là chùa Từ Ân và chùa Khải Tường. Theo một số tư liệu, ngày 25/5/1791, Nhị phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu) sinh Nguyễn Phúc Đảm nơi hậu liêu chùa Khải Tường.

    Sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi vua, năm 1802 vua Gia Long cho trùng tu hai ngôi chùa này. Để tạ ơn che chở, vua đã dâng cúng tượng Phật A-Di-Đà cao 2,5 m bằng gỗ mít, ngồi trên tòa sen, sơn son thếp vàng.

    Sách Lược Khảo Phật giáo sử Việt Nam của Vân Thanh, xuất bản tháng 3/1975, viết: “… chùa Khải Tường, Thôn Hoạt Lột, huyện Bình Dương, xây cất năm Tân Hợi (1791), hiện nay nền chùa là Trường Đại Học Y Khoa cũ, đường Trần Quý Cáp, do Nguyễn Vương Phúc Ánh kiến tạo để kỷ niệm nơi sinh Hòang tử Đởm (hay Đảm, tên vua Minh Mạng)”.

    Tương tự, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa cũng cho rằng “Chùa nầy có dật sử chính hoàng tử Đảm (sau lên ngôi là Đức Minh Mạng) sanh nơi hậu liêu vào năm Tân Hợi (1791) giữa cơn tị nạn Bình Tây Sơn. Qua năm 1804, Cao Hoàng nhớ tích cũ, để tạ ơn Phật dày công che chở mấy năm bôn tẩu nên gởi tặng chùa một cốt Phật Thích Ca thật lớn bằng gỗ mít, thếp vàng tuyệt kỹ”.

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Tượng phật A-Di-Đà vua Gia Long tặng chùa Khải Tường hiện được trưng bày ở bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP HCM. Ảnh: Wikipedia

    Năm 1820 vua Gia Long Mất, Minh Mạng nối ngôi. Đến năm 1832, sau khi tìm kiếm được địa chỉ nơi cha mẹ từng ở và cũng là nơi sinh ra mình, vua Minh Mạng sai xuất 300 lạng bạc trùng tu chùa và đặt tên là Quốc Ấn Khải Tường, đồng thời cho “mộ sư đến ở, cấp ruộng tự điền” để lo việc lễ tiết hàng năm (Khải Tường là mở bày đều tốt lành. Ám chỉ nơi chốn vua sinh ra là vùng đất quý, phát phúc lâu dài, rộng rãi). Chùa Từ Ân gần đó cũng được phong Sắc Tứ Từ Ân.

    Quy mô của chùa Quốc Ấn Khải Tường từ ngoài vào trong gồm có lầu chuông trống ba gian hai chái; tiếp đến điện Phật ba gian; hai bên có hai hành lang dài nối với Tăng xá và nhà ăn đều ba gian hai chái. Chùa làm xong, thỉnh hai mươi nhà sư đến cư trú, ban cấp ruộng đất lấy hoa lợi lo việc thờ cúng hằng năm. Nơi đây có các vị Cao Tăng Trụ trì hoằng dương đạo pháp, được triều đình bảo hộ nên trở thành ngôi chùa tiêu biểu, ảnh hưởng rộng lớn đến quần chúng đạo Phật khắp Nam kỳ lục tỉnh.

    Năm 1859, quân Pháp tấn công Gia Định, sau khi chiếm được thành họ chiếm đóng chùa Khải Tường và các ngôi chùa lớn khác như Từ Ân, Kim Chương, Kiểng Phước, Mai Sơn… thiết lập phòng tuyến quân sự để chống lại các đợt tấn công của người Việt.

    Riêng chùa Khải Tường, đại úy thủy quân lục chiến Pháp tên Barbé nhận nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ. Barbé cho đem tượng Phật bỏ ngoài sân, cưỡng bức các sư phải rời chùa. Chiều 7/12/1860, quân Việt phục kích giết chết Barbé khi viên sĩ quan này cỡi ngựa đi tuần đêm từ chùa Khải Tường đến đền Hiển Trung (nay được cho là ngã ba Võ Văn Tần – Trần Quốc Thảo).

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Bảo tàng chứng tích chiến tranh ngày nay. Ảnh: Trung Sơn

    Theo nhà văn Sơn Nam, khoảng năm 1867 chùa Khải Tường trở thành trường sư phạm nam. Mười ba năm sau chùa bị tháo dỡ, trường dời qua cơ sở mới là trường Chasseloup Laubat xây cất xong khoảng 1877.

    Khi tháo dỡ, tấm hoành phi “Quốc ân Khải Tường tự” được chuyển về chùa Từ Ân (nay ở đường Tân Hóa, quận 6) cất giữ, còn tượng Phật A-Di-Đà phải dời đi nhiều nơi, sau cùng được trưng bày trong Viện bảo tàng Quốc gia Sài Gòn (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP HCM).

    Thời gian sau, trên nền chùa bỏ hoang này, người Pháp cho xây một dinh thự dành cho quan chức trong bộ máy cai trị. Trước năm 1963 dùng làm Trường Đại học Y dược, sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các tướng lãnh cho các cố vấn quân sự đến trú đóng. Sau ngày năm 1975, nơi đây được dùng làm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh.

    Trung Sơn

    Theo vnexpress

  • Nguồn gốc tên gọi các địa danh ở Sài Gòn

    Nguồn gốc tên gọi các địa danh ở Sài Gòn

    Đây là album giải thích những tên gọi Sài Gòn từ xưa. Các địa danh khá phổ biến như: Bến Nghé, Cầu Bông, Thị Nghè… nhưng ít ai hiểu được hết ý nghĩa tên gọi của chúng.

    #ToiladanSaiGon #SaiGon
    ————————————–
    Theo The VOIR

    Đakao – tên gọi mà biết bao người Sài Gòn đã quen mặt, một cái tên gây ấn tượng mạnh mẽ khi vừa nghe thì giống tên Việt Nam nhưng khi viết thì lại mang đậm dáng dấp phương Tây. Lịch sử đằng sau cái tên “nửa người nửa ta” này có gì đặc biệt? Thời xưa, có giai đoạn hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành “Địa phương Sài Gòn – Chợ Lớn” (Région de Saigon – Cholon) với tổ chức bên dưới là các hộ (quartier), tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Người đứng đầu một hộ gọi là Hộ trưởng (Chef de quartier). Tên gốc của vùng đất Đakao ngày nay là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lí). Trong sách báo và các văn bản thời trước, người Pháp đã phiên âm địa danh Đất Hộ thành Đakao. Trên thực tế, địa danh Đakao chỉ phổ biến rộng tại Sài Gòn từ thập niên 1950 – 1960 trở về sau.
    Đakao – tên gọi mà biết bao người Sài Gòn đã quen mặt, một cái tên gây ấn tượng mạnh mẽ khi vừa nghe thì giống tên Việt Nam nhưng khi viết thì lại mang đậm dáng dấp phương Tây. Lịch sử đằng sau cái tên “nửa người nửa ta” này có gì đặc biệt?
    Thời xưa, có giai đoạn hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành “Địa phương Sài Gòn – Chợ Lớn” (Région de Saigon – Cholon) với tổ chức bên dưới là các hộ (quartier), tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Người đứng đầu một hộ gọi là Hộ trưởng (Chef de quartier). Tên gốc của vùng đất Đakao ngày nay là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lí). Trong sách báo và các văn bản thời trước, người Pháp đã phiên âm địa danh Đất Hộ thành Đakao. Trên thực tế, địa danh Đakao chỉ phổ biến rộng tại Sài Gòn từ thập niên 1950 – 1960 trở về sau.

     

    Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Bà sinh ra vua Thiệu Trị rồi qua đời sau đó 13 ngày.  Bà là người đức tốt nhưng yểu mệnh. Cha chồng là vua Gia Long rất thương mà ra lệnh kiêng kỵ chữ Hoa trong tên bà, trở thành câu một câu chuyện nổi tiếng, dẫn đến việc đổi tên hàng loạt của các địa danh trong nước, cho đến tận ngày nay.
    Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Bà sinh ra vua Thiệu Trị rồi qua đời sau đó 13 ngày.
    Bà là người đức tốt nhưng yểu mệnh. Cha chồng là vua Gia Long rất thương mà ra lệnh kiêng kỵ chữ Hoa trong tên bà, trở thành câu một câu chuyện nổi tiếng, dẫn đến việc đổi tên hàng loạt của các địa danh trong nước, cho đến tận ngày nay.

     

    Đây là nút giao thông quan trọng thuộc phường 4 (quận Tân Bình), điểm giao của 4 đường lớn gồm Trường Chinh, Cách Mạng Tháng Tám, Lý Thường Kiệt và Hoàng Văn Thụ.  Về tên gọi, theo Lê Minh Quốc trong sách "Người Quảng Nam", Bảy Hiền là tên của ông già bán cà phê "cóc" sinh thứ Bảy, tên Hiền. Người này cũng cai quản các đồn điền cao su của Nam Phương hoàng hậu, tức Nguyễn Hữu Thị Lan - phu nhân vua Bảo Đại.  Khoảng năm 1940 người Sài Gòn gọi "ngã tư ông Bảy Hiền" dần dần từ "ông" mất chỉ còn "ngã tư Bảy Hiền". Sau này, nguyên khu vực quanh ngã tư được gọi thành "Bảy Hiền".  Trước năm 1954, khu vực này vẫn còn là vùng ngoại ô của Sài Gòn, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh đồng lúa chạy theo con đường lên miệt Tây Ninh. Một vài gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng và chăn nuôi ngựa.   Vùng Bảy Hiền nổi tiếng với làng dệt do những cư dân Quảng Nam vào đây lập nghiệp (sau năm 1954). Trên đường Nguyễn Bá Tòng, thuộc phường 12 có một ngôi chợ chuyên bán các món ăn của xứ Quảng - chợ Bà Hoa.
    Đây là nút giao thông quan trọng thuộc phường 4 (quận Tân Bình), điểm giao của 4 đường lớn gồm Trường Chinh, Cách Mạng Tháng Tám, Lý Thường Kiệt và Hoàng Văn Thụ.
    Về tên gọi, theo Lê Minh Quốc trong sách “Người Quảng Nam”, Bảy Hiền là tên của ông già bán cà phê “cóc” sinh thứ Bảy, tên Hiền. Người này cũng cai quản các đồn điền cao su của Nam Phương hoàng hậu, tức Nguyễn Hữu Thị Lan – phu nhân vua Bảo Đại.
    Khoảng năm 1940 người Sài Gòn gọi “ngã tư ông Bảy Hiền” dần dần từ “ông” mất chỉ còn “ngã tư Bảy Hiền”. Sau này, nguyên khu vực quanh ngã tư được gọi thành “Bảy Hiền”.
    Trước năm 1954, khu vực này vẫn còn là vùng ngoại ô của Sài Gòn, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh đồng lúa chạy theo con đường lên miệt Tây Ninh. Một vài gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng và chăn nuôi ngựa.
    Vùng Bảy Hiền nổi tiếng với làng dệt do những cư dân Quảng Nam vào đây lập nghiệp (sau năm 1954). Trên đường Nguyễn Bá Tòng, thuộc phường 12 có một ngôi chợ chuyên bán các món ăn của xứ Quảng – chợ Bà Hoa.

     

    Tên Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm TP.HCM hiện nay).  Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đình dư địa chí” (1900) thì tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự. Còn theo học giả Trương Vĩnh Ký, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, bò ra tắm” vì có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).
    Tên Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm TP.HCM hiện nay).
    Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đình dư địa chí” (1900) thì tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
    Còn theo học giả Trương Vĩnh Ký, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, bò ra tắm” vì có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).

     

    Là nút giao thông lớn ở cửa ngõ phía Đông của TP HCM, Hàng Xanh là địa danh rất quen thuộc với người Sài Gòn. Vùng Hàng Xanh, bao gồm một phần địa bàn các phường 24, 25 (quận Bình Thạnh), còn có chợ Hàng Xanh, ngã tư Hàng Xanh.  Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Lợi (trong quyển Sài Gòn - Đất và Người) qua nhiều tài liệu cũ, địa danh này viết đúng phải là Hàng Sanh. Theo sách Đại Nam quốc âm tự vị của nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của, Sanh "là thứ cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ". Ngày trước, dọc theo hai bên đường nay là Bạch Đằng có 2 hàng cây sanh, dân thường gọi là Hàng Sanh. Nên có thể kết luận, Hàng Xanh do đọc chệch từ Hàng Sanh mà ra.
    Là nút giao thông lớn ở cửa ngõ phía Đông của TP HCM, Hàng Xanh là địa danh rất quen thuộc với người Sài Gòn. Vùng Hàng Xanh, bao gồm một phần địa bàn các phường 24, 25 (quận Bình Thạnh), còn có chợ Hàng Xanh, ngã tư Hàng Xanh.
    Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Lợi (trong quyển Sài Gòn – Đất và Người) qua nhiều tài liệu cũ, địa danh này viết đúng phải là Hàng Sanh. Theo sách Đại Nam quốc âm tự vị của nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của, Sanh “là thứ cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ”. Ngày trước, dọc theo hai bên đường nay là Bạch Đằng có 2 hàng cây sanh, dân thường gọi là Hàng Sanh. Nên có thể kết luận, Hàng Xanh do đọc chệch từ Hàng Sanh mà ra.

     

    Nút giao thông lớn thuộc phường 3 (quận Gò Vấp) nay có tên gọi khác là Ngã Sáu Gò Vấp. Đây là điểm giao nhau của đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ. Thời Pháp thuộc, giao lộ này được gọi là Ngã năm Hàng Điệp vì dọc theo năm tuyến đường chéo nhau bấy giờ có trồng những cây điệp lớn. Sau 1954, chính quyền cũ cho xây trường huấn luyện quân khuyển tại đây. Từ đó, người Sài Gòn đặt cho giao lộ này cái tên gần gũi: Ngã năm Chuồng Chó.  Năm 1966, trường này được nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện và bổ sung Quân khuyển với quy mô mở rộng, kỹ thuật huấn luyện cũng được cập nhật từ Mỹ. Các chú chó nghiệp vụ này được luyện đánh hơi để kiêm thêm công việc tuần tiễu. Có thời, tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á đều sử dụng quân khuyển do nơi này huấn luyện.
    Nút giao thông lớn thuộc phường 3 (quận Gò Vấp) nay có tên gọi khác là Ngã Sáu Gò Vấp. Đây là điểm giao nhau của đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ.
    Thời Pháp thuộc, giao lộ này được gọi là Ngã năm Hàng Điệp vì dọc theo năm tuyến đường chéo nhau bấy giờ có trồng những cây điệp lớn. Sau 1954, chính quyền cũ cho xây trường huấn luyện quân khuyển tại đây. Từ đó, người Sài Gòn đặt cho giao lộ này cái tên gần gũi: Ngã năm Chuồng Chó.
    Năm 1966, trường này được nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện và bổ sung Quân khuyển với quy mô mở rộng, kỹ thuật huấn luyện cũng được cập nhật từ Mỹ. Các chú chó nghiệp vụ này được luyện đánh hơi để kiêm thêm công việc tuần tiễu. Có thời, tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á đều sử dụng quân khuyển do nơi này huấn luyện.

     

    Đa số tên gọi cho các con đường, cây cầu, phường, chợ… ở Sài Gòn đều lấy tên những người có công với đất nước, thành phố hoặc đơn giản là chỉ với người dân của khu vực đó. Có vẻ như Thủ Thiêm không phải là một cái tên được đặt theo công thức trên. Trước đây, “thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông. Vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An) hay Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa được cho là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
    Đa số tên gọi cho các con đường, cây cầu, phường, chợ… ở Sài Gòn đều lấy tên những người có công với đất nước, thành phố hoặc đơn giản là chỉ với người dân của khu vực đó. Có vẻ như Thủ Thiêm không phải là một cái tên được đặt theo công thức trên.
    Trước đây, “thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông. Vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An) hay Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa được cho là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.

     

    Xa lộ Đại Hàn là cách gọi dân gian cho đoạn quốc lộ 1A từ ngã ba Thủ Đức (ngã ba Trạm 2) đến ngã ba An Lạc, quận Bình Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, dài 43,1 km.  Xa lộ này được công binh quân đội Đại Hàn Dân Quốc xây dựng năm 1969 - 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn và ngăn cách giữa Sài Gòn với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.
    Xa lộ Đại Hàn là cách gọi dân gian cho đoạn quốc lộ 1A từ ngã ba Thủ Đức (ngã ba Trạm 2) đến ngã ba An Lạc, quận Bình Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, dài 43,1 km.
    Xa lộ này được công binh quân đội Đại Hàn Dân Quốc xây dựng năm 1969 – 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn và ngăn cách giữa Sài Gòn với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.

     

    Là tên gọi của quận vùng ven tại TP HCM. Theo các nhà nghiên cứu, đúng ra phải là Gò Vắp vì đây vốn là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương gần đó.
    Là tên gọi của quận vùng ven tại TP HCM. Theo các nhà nghiên cứu, đúng ra phải là Gò Vắp vì đây vốn là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương gần đó.

     

    Theo một số tài liệu thì địa danh “Hóc Môn” xuất hiện muộn nhất là từ đầu thể kỷ XIX. Đến năm 1915, Hóc Môn là một trong bốn trạm hành chính của tỉnh Gia Định. Năm 1917 có quyết định đổi là quận Hóc Môn. Từ năm 1976 gọi là huyện Hóc Môn. Ngày 6-1-1997, bảy xã của Hóc Môn được tách ra để thành lập quận 12.  “Có người giải thích: “hóc” là chỗ xa xôi, vắng vẻ; “môn” là cây môn nước. Như vậy, ban đầu Hóc Môn chỉ vùng đất xa xôi, vắng vẻ, nơi trồng nhiều cây môn nước, sau đó trở thành địa danh hành chính: huyện Hóc Môn... Cách giải thích khác: “Môn” đúng là cây môn nước, vì ở TP.HCM có nhiều địa danh mang yếu tố này: “rạch Môn” (Thủ Đức); cầu và rạch “Bàu Môn”, xóm “Bưng Môn” (Củ Chi)... Còn “hóc” đồng nghĩa với từ xép, có nghĩa là “dòng nước nhỏ”. Ở thị trấn Hóc Môn còn con rạch nhỏ mang tên “Hóc Môn”. Rất nhiều khả năng tên rạch Hóc Môn có trước tên vùng Hóc Môn vì tên sông, rạch là những địa danh rất cổ. Tóm lại, tên gọi “Hóc Môn” để chỉ vùng có con rạch nhỏ với nhiều cây môn” (Hỏi đáp về Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh, nhiều tác giả, Tập 1, NXB Trẻ, 2006, trang 66).
    Theo một số tài liệu thì địa danh “Hóc Môn” xuất hiện muộn nhất là từ đầu thể kỷ XIX. Đến năm 1915, Hóc Môn là một trong bốn trạm hành chính của tỉnh Gia Định. Năm 1917 có quyết định đổi là quận Hóc Môn. Từ năm 1976 gọi là huyện Hóc Môn. Ngày 6-1-1997, bảy xã của Hóc Môn được tách ra để thành lập quận 12.
    “Có người giải thích: “hóc” là chỗ xa xôi, vắng vẻ; “môn” là cây môn nước. Như vậy, ban đầu Hóc Môn chỉ vùng đất xa xôi, vắng vẻ, nơi trồng nhiều cây môn nước, sau đó trở thành địa danh hành chính: huyện Hóc Môn… Cách giải thích khác: “Môn” đúng là cây môn nước, vì ở TP.HCM có nhiều địa danh mang yếu tố này: “rạch Môn” (Thủ Đức); cầu và rạch “Bàu Môn”, xóm “Bưng Môn” (Củ Chi)… Còn “hóc” đồng nghĩa với từ xép, có nghĩa là “dòng nước nhỏ”. Ở thị trấn Hóc Môn còn con rạch nhỏ mang tên “Hóc Môn”. Rất nhiều khả năng tên rạch Hóc Môn có trước tên vùng Hóc Môn vì tên sông, rạch là những địa danh rất cổ. Tóm lại, tên gọi “Hóc Môn” để chỉ vùng có con rạch nhỏ với nhiều cây môn” (Hỏi đáp về Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh, nhiều tác giả, Tập 1, NXB Trẻ, 2006, trang 66).

     

    Điểm qua tên của một số địa danh, kênh rạch, phường ở khu vực quận 1, người ta sẽ dễ dàng nghe đi nghe lại cái tên Thị Nghè, có khi xuất hiện dưới tên của một con rạch, cây cầu, lại có khi xuất hiện như một ngôi chợ, một nhà thờ.  Ngoài ra, phần địa giới gồm một phần các phường 17, 19, 21 thuộc quận Bình Thạnh cũng được gọi là Thị Nghè. Theo quyển “Gia Định thành thông chí”, mục “Trấn Phiên An”, Thị Nghè là tên dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân, và là vợ một viên thư kí. Bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư kí mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do bà đã có công cho khai hoang đất ở và bắc cầu để tiện việc đi lại cho dân chúng. Cảm phục bà, người ta quyết định gọi cây cầu là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè.  Cho đến ngày nay, cái tên Thị Nghè vẫn còn được giữ lại như một cách hậu thế ghi nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Khánh.
    Điểm qua tên của một số địa danh, kênh rạch, phường ở khu vực quận 1, người ta sẽ dễ dàng nghe đi nghe lại cái tên Thị Nghè, có khi xuất hiện dưới tên của một con rạch, cây cầu, lại có khi xuất hiện như một ngôi chợ, một nhà thờ.
    Ngoài ra, phần địa giới gồm một phần các phường 17, 19, 21 thuộc quận Bình Thạnh cũng được gọi là Thị Nghè.
    Theo quyển “Gia Định thành thông chí”, mục “Trấn Phiên An”, Thị Nghè là tên dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân, và là vợ một viên thư kí. Bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư kí mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do bà đã có công cho khai hoang đất ở và bắc cầu để tiện việc đi lại cho dân chúng. Cảm phục bà, người ta quyết định gọi cây cầu là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè.
    Cho đến ngày nay, cái tên Thị Nghè vẫn còn được giữ lại như một cách hậu thế ghi nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Khánh.

     

    Với bề dày lịch sử hơn 100 năm, cây cầu Chà Và bắc qua kênh Tàu Hủ đã góp phần thông thương vùng Chợ Lớn giữa quận 8 và quận 5.  Cầu Chà Và có chiều rộng khoảng 30m, chiều dài 190m, có thêm 2 nhánh phụ lên xuống đại lộ Đông Tây, đảm bảo các phương tiện đi trên cầu không giao cắt nhau nhằm hạn chế tối đa kẹt xe. Thật ra, Chà Và là cách người Việt phát âm chữ Java – tên một hòn đảo ở Indonesia. Chà Và dùng để chỉ người đến từ đảo Java, về sau dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm như Chà Bom Bay (Bombay, Ấn Ðộ), Chà Ma Ní (Manila, Philippines). Thế mới rõ vì sao khu vực cầu Chà Và từng là phố chợ của người gốc Ấn Độ chuyên bán vải lại được gọi thành Chà Và. Ngoài ra, ở đầu cầu Chà Và về phía quận 8 có rạp hát Phi Long nổi tiếng, thường xuyên chiếu phim Ấn Độ phục vụ cư dân quanh vùng.
    Với bề dày lịch sử hơn 100 năm, cây cầu Chà Và bắc qua kênh Tàu Hủ đã góp phần thông thương vùng Chợ Lớn giữa quận 8 và quận 5.
    Cầu Chà Và có chiều rộng khoảng 30m, chiều dài 190m, có thêm 2 nhánh phụ lên xuống đại lộ Đông Tây, đảm bảo các phương tiện đi trên cầu không giao cắt nhau nhằm hạn chế tối đa kẹt xe.
    Thật ra, Chà Và là cách người Việt phát âm chữ Java – tên một hòn đảo ở Indonesia. Chà Và dùng để chỉ người đến từ đảo Java, về sau dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm như Chà Bom Bay (Bombay, Ấn Ðộ), Chà Ma Ní (Manila, Philippines).
    Thế mới rõ vì sao khu vực cầu Chà Và từng là phố chợ của người gốc Ấn Độ chuyên bán vải lại được gọi thành Chà Và. Ngoài ra, ở đầu cầu Chà Và về phía quận 8 có rạp hát Phi Long nổi tiếng, thường xuyên chiếu phim Ấn Độ phục vụ cư dân quanh vùng.

     

    Tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng thuộc phường 1, quận Bình Thạnh, Lăng Ông Bà Chiểu nằm tĩnh lặng và trầm mặc ngắm nhìn thành phố trẻ ngày một náo nhiệt, hiện đại hơn. Và nếu có ai đột ngột hỏi bạn rằng Lăng Ông Bà Chiểu thờ ai, vì sao lại có tên gọi như vậy, bạn có trả lời được không? Lăng Ông Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông, còn có tên gọi khác ít phổ biến hơn là Thượng Công Miếu) là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Chính vì tên gọi đặc biệt mà nhiều người thường hiểu lầm rằng lăng này được lập ra để thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu.  Thật ra, đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông. Lăng lại nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu, và đó là nguồn gốc ra đời của cái tên Lăng Ông Bà Chiểu.
    Tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng thuộc phường 1, quận Bình Thạnh, Lăng Ông Bà Chiểu nằm tĩnh lặng và trầm mặc ngắm nhìn thành phố trẻ ngày một náo nhiệt, hiện đại hơn.
    Và nếu có ai đột ngột hỏi bạn rằng Lăng Ông Bà Chiểu thờ ai, vì sao lại có tên gọi như vậy, bạn có trả lời được không?
    Lăng Ông Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông, còn có tên gọi khác ít phổ biến hơn là Thượng Công Miếu) là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Chính vì tên gọi đặc biệt mà nhiều người thường hiểu lầm rằng lăng này được lập ra để thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu.
    Thật ra, đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông. Lăng lại nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu, và đó là nguồn gốc ra đời của cái tên Lăng Ông Bà Chiểu.

     

    Với tổng chiều dài 22km, vắt ngang giữa TP.HCM và trải dài trên địa bàn 8 quận huyện, kênh Tàu Hủ khiến không ít người thắc mắc về nguồn gốc cái tên “nghe thôi đã thèm” trong khi quanh khu vực này không hề có truyền thống làm tàu hủ? Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19), thì đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nhìn kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần… thi vị, nên gọi như vậy.  Kênh Tàu Hủ chưa bao giờ mang vẻ đẹp thơ mộng làm say đắm người nhìn, nhưng nó vẫn nằm sâu trong tiềm thức của người Sài Gòn với hình ảnh thuyền lớn thuyến nhỏ buôn bán tấp nập và cả một giai đoạn lịch sử đặc biệt .
    Với tổng chiều dài 22km, vắt ngang giữa TP.HCM và trải dài trên địa bàn 8 quận huyện, kênh Tàu Hủ khiến không ít người thắc mắc về nguồn gốc cái tên “nghe thôi đã thèm” trong khi quanh khu vực này không hề có truyền thống làm tàu hủ?
    Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19), thì đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nhìn kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần… thi vị, nên gọi như vậy.
    Kênh Tàu Hủ chưa bao giờ mang vẻ đẹp thơ mộng làm say đắm người nhìn, nhưng nó vẫn nằm sâu trong tiềm thức của người Sài Gòn với hình ảnh thuyền lớn thuyến nhỏ buôn bán tấp nập và cả một giai đoạn lịch sử đặc biệt .
  • Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám… của Sài Gòn xưa

     Công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám, chị em ta buôn bán “vốn tự có”  thứ Chín… 

    Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám... của Sài Gòn xưa
    Quán cà phê, nơi người Sài Gòn xả stres và “tám” đủ chuyện trên đời với kiểu ngồi rất Nam bộ, Sài Gòn sông nước: co chân lên ghế – Ảnh: M.C.

    Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…

    “Em chả hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.

    Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này,  biết đâu có dịp nào đó anh em có thể dùng để “buôn dưa lê” lúc “trà dư tửu hậu”.

    Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.

    Đứng trên hết là các “quan lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.

    Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…

    Hàng thứ Ba là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là 1 thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.

    Xếp thứ Tư là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.

    Thứ đến là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…

    Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).

    Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

    Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lục làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…

    Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.

    Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.

    Dài dòng tí để trình bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lãng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để ý những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”.

    Nếu lỡ đọc thấy không có gì thú vị thì thôi, “bỏ qua đi Tám”!

    Theo Tuoitre Online

  • Giọng nói người Sài Gòn

    Giọng nói người Sài Gòn

    Giọng nói người Sài Gòn không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước Nam Bộ, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương

    ganh hang rong sai gon
    Ai sống ở Sài Gòn này mà có thể quên tiếng rao vặt của những cô gánh hàng rong ..

    Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…
    Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế…Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào …mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.
    Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu… Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!” “thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…
    Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”…Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.
    Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó.
    Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa!”; “Mới dìa/dzề hả nhóc? – Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ…dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay.
    Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”…người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó [” nghĩa là khen cô bé đó lắm vậy.) Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.
    Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó [ lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.
    Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.
    Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”

    Nguồn Operablog

  • So sánh Sài Gòn 1955 với 2005

    Sài Gòn đổi thay như thế nào sau 50 năm?

    Câu trả lời có thể được tìm thấy qua những hình ảnh so sánh đặc sắc trong ấn phẩm có tên “Sài Gòn 1955 – TP Hồ Chí Minh” năm 2005”, được Lãnh sự quán Pháp  bảo trợ xuất bản năm 2005. Trong ấn phẩm này, những bức ảnh chụp năm 1955 được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia Pháp nổi tiếng Raymond Cauchetier.

    Auto Draft

    Auto Draft
    Sau đây là một số hình ảnh trích từ ấn phẩm, được trang mạng Belle Indochine của Pháp giới thiệu.
    Auto Draft
    Nhà thờ Đức Bà năm 1955.
    Auto Draft
    Năm 2005, diện mạo công trình không có mấy thay đổi.
    Auto Draft
    Dinh Độc Lập năm 1955 là một công trình kiến trúc mang phong cách Pháp. Nó đã bị phá hủy vào năm 1962 do cuộc oanh tạc của hai phi công bất mãn thuộc không lực Sài Gòn.
    Auto Draft
    Công trình này đã được xây dựng lại và khánh thành năm 1966. Sau giải phóng, Dinh Độc Lập đổi tên thành Hội trường Thống Nhất.
    Auto Draft
    Viện Bảo tàng trong Thảo Cầm Viên năm 1955.
    Auto Draft
    Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005.
    Auto Draft
    Chợ Bình Tây năm 1955.
    Auto Draft
    Chợ Bình Tây năm 2005.
    Auto Draft
    Mặt sau của Nhà thờ Đức Bà năm 1955.
    Auto Draft
    Năm 2005.
    Auto Draft
    Cầu Khánh Hội và cầu Mống trên Kênh Tàu Hủ năm 1955.
    Auto Draft
    Năm 2005.
    Auto Draft
    Đại lộ Charner năm 1955.
    Auto Draft
    Đại lộ Nguyễn Huệ năm 2005.
    Auto Draft
    Đại lộ De la Somme năm 1955.
    Auto Draft
    Đại lộ Hàm Nghi năm 2005.
    Auto Draft
    Khách sạn Majestic trên đường Catinat năm 1955.
    Auto Draft
    Khách sạn Majestic, đường Đồng Khởi năm 2005.
    Auto Draft
    Bến Bạch Đằng năm 1955.
    Auto Draft
    Năm 2005.
    Auto Draft
    Bờ sông Sài Gòn năm 1955.
    Auto Draft
    Năm 2005.
    Auto Draft
    Sông Sài Gòn, 1955.
    Auto Draft
    Sông Sài Gòn, 2005.
    Auto Draft
    Cầu Ông Lãnh, 1955.
    Auto Draft
    Cầu Ông Lãnh, 2005.
    Auto Draft
    Cầu Mống, 1955.
    Auto Draft
    Cầu Mống, 2005.
    Auto Draft
    Cầu Chà Và, 1955.
    Auto Draft
    Cầu Chà Và, 2005.
    Auto Draft
    Toàn cảnh Sài Gòn năm 1955.
    Auto Draft
    Toàn cảnh Sài Gòn năm 2005.
    Theo Langthang SaiGon
  • Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Người đẹp Sài Gòn những năm 60-70 với tà áo dài thướt tha hay váy ngắn xuống phố, nụ cười tươi tắn hay dáng vẻ cá tính bên chiếc xe máy Vespa… được nhiều nhiếp ảnh gia nước ngoài ghi lại hình ảnh.

    Vẻ đẹp của phụ nữ Sài Gòn xưa không chỉ đến từ cách ăn mặc thời trang, hợp mốt mà còn từ thần thái tươi tắn, dáng điệu tự tin, cởi mở trong giao tiếp và một lối sống ưa đón nhận cái mới. Sài Gòn là mảnh đất phóng khoáng, đón nhận người dân khắp nơi về sinh sống nên những giai nhân ở vùng đất này cũng mang nhiều vẻ đẹp độc đáo.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Đôi mắt to sáng lấp lánh, khuôn miệng nhỏ xinh lanh lợi và đôi má bầu bĩnh là nét đẹp đặc trưng của thiếu nữ Sài Gòn. Đội thêm một chiếc mũ được ưa chuộng thời điểm này làm tăng nét cá tính cho cô gái trẻ.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Tà áo dài bay bay của những cô gái xuống phố được nhóm phóng viên ảnh tạp chí Life ghi lại năm 1961.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Dáng ngồi bên của phụ nữ Sài Gòn, thể hiện được nét nữ tính, nhu mì. Những năm 60, 70 của thế kỷ trước, xe Vespa ở Sài Gòn khá phổ biến, hình ảnh người đàn ông cầm lái sẽ đẹp hơn khi có một cô gái duyên dáng, trẻ trung mặc áo dài hoặc váy ngồi trên yên sau. Ảnh được tạp chí Life ghi lại năm 1961.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Áo dài và xe đạp, hình ảnh cô gái Sài Gòn với tà áo dài bay bay trong gió trở thành một ký ức đẹp trong lòng người Sài Gòn một thuở. Khoảnh khắc này được tạp chí Life ghi lại năm 1961.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Nụ cười của cô gái tiếp tân ở khách sạn được nhiếp ảnh gia Lloyd chụp năm 1966. Khách sạn này tọa lạc ngay góc đường Trương Công Định đối diện rạp chiếu bóng Long Thuận xưa. Ông Thụy, một người đương thời, nhớ lại: “Nhìn nụ cười của cô tiếp tân là mấy anh rung động luôn. Con gái Sài Gòn mà”.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Ảnh đi chợ Sài Gòn xưa, nay là chợ Bến Thành do Lloyd chụp năm 1966. Trên diễn đàn “Dân Sài Gòn xưa” một thành viên lớn tuổi chia sẻ: “Nhìn cảnh phụ nữ mặc áo dài đi chợ ngày xưa thật nho nhã, hồi ức vẫn còn lấp lánh đâu đây, bây giờ sao tìm được cảnh ấy”.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Những tà áo dài xuống phố ở góc đường Công Lý và Lê Lợi. Ảnh được chụp năm 1966 bởi nhiếp ảnh gia Lloyd. Áo dài thướt tha với màu sắc đa dạng là trang phục xuống phố của nhiều quý cô thời bấy giờ, làm tôn lên dáng đi uyển chuyển, thanh thoát.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Những thiếu nữ trong trang phục áo dài giản dị do Bob Lee chụp năm 1969. Với phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1945-1975, tà áo dài là trang phục không thể thiếu trong tủ quần áo của họ. Phụ nữ diện áo dài trắng đi học, ôm nghiêng cặp da đen và chiếc nón duyên dáng, họ còn mặc áo dài đi dạo phố, đi chợ, đi làm.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Ảnh ba người phụ nữ trong trang phục áo dài đi với phụ kiện hợp mốt như túi xách, kính, chiếc ô, trang sức… được Bob Lee chụp năm 1969. Áo dài giúp họ thoải mái trong những hoạt động thường nhật, vừa giữ được nét duyên. Đặc biệt, áo dài phụ nữ Sài Gòn xưa có nét riêng là phần chít ngang ngay vị trí eo.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Với áo dài, váy ngắn và tóc thời trang, phụ nữ Sài Gòn luôn duyên dáng trong cuộc sống thường nhật. Họ khéo léo trong việc chọn phục trang họa tiết nền nã, màu đơn sắc đem đến vẻ thanh lịch mà sang trọng. Nhiều người đến Sài Gòn lúc ấy đều ngạc nhiên về nét đẹp hiện đại và ăn mặc hợp mốt của những quý cô thành thị. Váy suông, bó sát, váy xòe… du nhập vào các đô thị miền Nam những năm 60, 70 và nhanh chóng được phụ nữ đón nhận.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Mái tóc cô gái được uốn bồng, váy ngắn, giày bít tự tin sải bước trên đường phố Sài Gòn. Thời trang của phụ nữ giai đoạn này ảnh hưởng chủ yếu từ Pháp. Chính ở giai đoạn này mà những danh xưng của Sài Gòn như “hòn ngọc Viễn Đông”, “Paris phương Đông” ra đời. Nét đẹp hiện đại và phóng khoáng của phụ nữ Sài Gòn xưa hình thành trên nền tảng cuộc sống nhộn nhịp của Sài Gòn từ cuối thế kỷ 19, cuộc sống tấp nập trên bến dưới thuyền và mở mang với bao cơ hội làm ăn. Kinh tế khấm khá, người đô thị có điều kiện tiếp xúc với nhiều trải nghiệm mới mẻ từ phương Tây du nhập vào. Ngoài ra, phụ nữ Sài Gòn không chịu nhiều lề thói phong kiến khắt khe nên lối sống có phần cởi mở, vui tươi hơn.

    Vẻ đẹp hiện đại của quý cô Sài Gòn xưa

    Trong ký ức nhiều người, nét đẹp của thiếu nữ Sài Gòn còn là hình ảnh của họ bên những chiếc xe. Họ không ngừng thử cái mới, trải nghiệm mới mẻ đem lại cho họ hạnh phúc. Hai loại tiêu biểu là xe Vespa của Italy và Velo Solex loại xe của Pháp có gắn động cơ phía trước. Hình ảnh những cô gái Sài Gòn tự lái xe Vespa hay Cub mang nét quyến rũ và cá tính.

    Khánh Ly
    Ảnh: Life, Flick

  • Taxi Sài Gòn xưa

    Taxi Sài Gòn xưa

    Taxi bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn – Chợ Lớn khoảng cuối những năm 40 và thịnh hành những năm 50 của thế kỷ 20.

    Khi ấy, người dân Sài Gòn vẫn quen miệng gọi là xe “cóc” hoặc “con bọ”.., tôi có vài người bạn là dân gốc Sài Gòn “chính hiệu” cho biết: “Đến giờ tôi vẫn nhớ như in hình ảnh của chiếc taxi cóc có màu xanh dương và màu vàng kem.

    Những năm 1960 – 1970 đường phố Sài Gòn tràn ngập loại xe này, ngày đó những người dân cho dù giàu hay nghèo vẫn đi bình đẳng phương tiện này và không bao giờ phân biệt giàu nghèo như nay . Sau năm 75 những chiếc taxi này hầu như bị “tuyệt chủng” không còn xuất hiện trên đường nữa”.

    ==============================
    Một nét văn minh khi đi trên những chiếc Taxi Sài Gòn xưa trước 75 hầu hết các xe taxi thời đó đều viết khẩu hiệu tuyên truyền “Không bỏ rác xuống đường” để giữ đường phố sạch đẹp, không biết có ai còn nhớ không ta?

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10)

    Mới đây trong vài lần đi ngao du lòng vòng Sài Gòn có thấy một anh tên Hòa năm nay cũng đã 65 tuổi, anh là một người Sài Gòn chính gốc một tài xế taxi trước 75 chia sẻ :
    =====================
    “Tôi lái taxi lúc đó 21 tuổi, cũng vào những năm tháng huy hoàng cuối cùng của những chiếc xe taxi con cóc, lúc đó, bến Bạch Đằng là điểm đậu rất nhiều taxi, thời đó taxi không được trang bị bộ đàm, không có tổng đài như bây giờ, nên phải chạy lòng vòng để đón khách, hằng đêm, chúng tôi hay đậu xe gần các rạp hát cải lương để đón khách, những chiếc taxi thời kỳ này đa phần là nhập từ Pháp về Sài Gòn, sau đó được đăng ký và cấp phát số hiệu. Số hiệu được in lớn hai bên cửa, khách muốn đi taxi phải ra đường chờ xe chạy ngang qua rồi vẫy tay để gọi, hoặc ra tận những nơi đậu xe. Đi taxi thời bấy giờ chỉ tính tiền km, không tính tiền chờ như hiện nay”, anh Hòa kể lại”
    ======================

    1.Gặp lại chiếc TAXI còn sót lại

    Taxi “con cóc” thời đó đặc trưng nhất là những chiếc xe mang tên Renault 4CV, do Pháp sản xuất đại trà từ năm 1947 và những hình dưới đây là chiếc Renault 4CV mang số hiệu Taxi – 1541, một trong số ít những chiếc taxi còn sót lại tại Sài Gòn và đang được phục chế sau hơn 40 năm “mất tích”, theo một thợ chuyên phục chế lại xe cũ, sau một thời gian bị lãng quên, hiện nay một số chiếc taxi xưa đang được phục hồi nguyên trạng, để phục vụ du lịch và dành cho những người muốn tìm lại chút hoài niệm về Sài Gòn xưa, một nhà sưu tầm đồ cổ đã tìm và phục dựng thành công chiếc taxi Renault 4CV này. Anh cho biết sẽ đưa chiếc xe đến những địa điểm mà nó đã từng đậu và đón khách, cũng theo anh, chiếc taxi xưa hiện anh đang sở hữu được người bán lại cho biết, nó được cấp lại biển số sau giải phóng.

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10)

    2.Những tính năng TAXI con cóc trước 75

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi saigon xua (2)

    Đồng hồ tính tiền, đây là một loại đồng hồ cơ học cũng sản xuất từ Pháp, được trang bị trên taxi thời đó hiện vẫn còn nguyên vẹn trên chiếc xe đang được phục chế, một nét văn minh Sài Gòn xưa, hầu hết các xe taxi thời đó đều viết khẩu hiệu tuyên truyền “Không bỏ rác xuống đường” để giữ đường phố sạch đẹp, thời đó, chủ nhân của xe được khắc tên, địa chỉ lên một tấm bảng gắn trên xe. Chiếc xe này thuộc về người chủ tên Nguyễn Thị Mười, ngụ đường Lê Văn Duyệt xưa (Cách Mạng Tháng Tám) nay.

     

    Nguồn: FB/ Sài Gòn xưa

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10)