Category: Sài gòn – Hòn ngọc Viễn Đông

Sài gòn – Hòn ngọc Viễn Đông

  • Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Dân miền Saigon chắc hẳn còn nhớ các tên nhà thương như nhà thương Chợ Rẫy, nhà thương Chợ Quán, Bình Dân, Nguyễn Văn Học, Từ Dũ, Hùng Vương hay nhà thương Hồng Bàng…

    Trên bảng hiệu thường dùng từ “bịnh viện” (hoặc “bệnh viện”), nhưng người dân miền Nam không gọi nhà thương là bệnh viện. Ở Saigon đôi lúc cũng có nghe người ta gọi nhà thương là bệnh viện nhưng những người đó không phải là dân gốc cố cựu miền Nam, thường là dân di cư năm 54.

    Tiếng “nhà thương” bắt nguồn từ ý nghĩa nhà chữa trị cho người thương tật bịnh hoạn. Nhưng dân miền Nam gắn liền nhà thương với tình thương và chánh phủ đã giúp vun bồi ý nghĩa, niềm tin đó.

    Ở những nhà thương công bệnh nhân đi khám bịnh, điều trị thì miễn phí, không tốn đồng xu nào. Vì vậy nó còn được gọi là nhà thương thí, (bố thí) cho người nghèo. Ở Sài gòn lúc trước người có tiền thì người ta đi nhà thương Đồn Đất, hay mấy nhà thương của bang hội người Hoa như Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Sùng Chính…

    Đương nhiên nhà thương công thì chật chội, không thoải mái tiện nghi, nhưng bù lại các ca bệnh nặng ngặt nghèo thì phải vô nhà thương công, sanh con so thì phải vô Từ Dũ hay Hùng Vương, vì đó là mấy nhà thương thực tập của trường y Saigon, tập trung các thầy, các cô, giáo sư, bác sĩ ưu tú của miền Nam. Thỉnh thoảng có người thân bịnh nhân la bài hải lên “đây là nhà thương chớ đâu phải nhà ghét” khi họ thấy y tá hằn hằn học nặng tay.

    Ngày nay tiếng “nhà thương” không còn sử dụng nữa.

    Một số “nhà thương” của SAIGON xưa:

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Đồn Đất Hospital – Sài Gòn 1940 – 1950 (nay Bệnh viện Nhi đồng 2, 14 Lý Tự Trọng, Bến Nghé, Quận 1)

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Chợ Quán 1974 Lễ khánh thành Trung Tâm Y Khoa Hàn-Việt ngày 2-3-1974 do Hàn Quốc giúp xây dựng.

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện SAIGON – 1900s

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Từ Dũ mặt đường Hồng Thập Tự (Nay là Nguyễn Thị Minh Khai)

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Chợ Rẫy Hospital – Chợ Lớn / Sài Gòn 1965 – Photo by Michael Mittelmann

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Cơ Đốc, Ngã Tư Phú Nhuận góc Võ Tánh – Võ Di Nguy – Photo by Darryl Henley

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Saigon 1966: Station Hospital – Bệnh viện Hải Quân Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo, đối diện KS Metropole

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Lễ khánh thành Bệnh Viện Vì Dân
    Bệnh viện Thống Nhất là một bệnh viện được thành lập vào ngày 04/09/1971 với tên gọi ban đầu là Bệnh viện Vì Dân

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Saigon 1965 – Bệnh viện Grall, nay là Nhi Đồng 2 Robert Gauthier’s Gallery

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Dưỡng Trí Viện Biên Hòa là nhà thương nổi tiếng điều trị bệnh về tâm thần, thường được gọi là “nhà thương điên”, sau 75 được đổi lại thành tên: Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương:

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Theo Saigonvivu

  • Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Phóng viên ảnh nổi tiếng người Mỹ Bill Eppridge đã ghi lại những bức ảnh đặc sắc trong một chuyến bay dân sự ở sân bay Tân Sơn Nhất ngày 14/7/1965. 

    Trước 1975, Tân Sơn Nhứt có nhiều chuyến bay nhất Đông Nam Á, quỹ đất để mở rộng sân bay đến 3.600 ha, gấp 3 lần sân bay Changi của Singapore.

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Bảng chỉ dẫn hướng vào phi trường Tân Sơn Nhứt.



    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Các con đường dẫn vào sân bay Tân Sơn Nhất được kiểm tra an ninh nghiêm ngặt.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Xe buýt của sân bay đón khách.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Bên trong ga hành khách sân bay Tân Sơn Nhất.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Tại quầy làm thủ tục.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách bước vào khu phòng chờ sau khi làm xong thủ tục.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách chờ lên máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Nữ tiếp viên dẫn khách ra máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Một hành khách đặc biệt: Thiền sư Thích Nhất Hạnh (người quàng khăn tối màu).

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách phải đi bộ một quãng đường khá dài để lên máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Người khuyết tật cũng không phải là ngoại lệ.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách mới hạ cánh xuống sân bay đi bộ vào nhà ga.

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Toàn cảnh sân bay Tân Sơn Nhất năm 1966. Ảnh: Life


    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Ngoài phục vụ dân sự thì sân bay còn là căn cứ của không quân chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Mỹ.

  • Tại sao có chữ “Gái bán hoa”?

    Tại sao có chữ “Gái bán hoa”?

    Vào năm 1920, “đội quân nhà Thổ” chuyên nghiệp từ Nhật Bản kéo sang Saigon hoạt động rất nhiều, mấy cô gái Nhật này chủ yếu phục vụ khách Du lịch từ Châu Âu và được huấn luyện rất kỹ. Tuy không xinh đẹp lắm, nhưng gái Nhật rất biết cách chiều chuộng đàn ông …. !

    Tại sao có chữ "Gái bán hoa" ?
    Gái bán hoa trong tiếng Nhật viết là 売春婦 (đọc là baishunpu) có nghĩa Hán Việt là “Mãi Xuân Phụ”

    Saigon Xưa có câu :
    ” Ăn cơm Tàu…Ở nhà Tây….Lấy vợ Nhật ” là vậy !
    Họ thuê hẳn một khu phố trên đường Rue Des Fleurs (Hải Triều) nối giữa Charner (Nguyễn Huệ) và De La Somme (Hàm Nghi) sau lưng Hotel Cosmopolitan (Cục Hải Quan bây giờ )….. Dân Saigon dùng danh từ ” Gái Bán Hoa ” (vì họ ở khu Đường Hoa ) để gọi những Kiều nữ xứ Phù Tang. Trên đường này còn có những cửa hàng bán hoa giấy, cũng có lẽ được du nhập từ Nhật. Sau 1975 những gia đinh này di tản ra nước ngoài. Nghề làm hoa giấy cũng mai một theo thời cuộc.

    @David Hà

  • Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955

    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955

    Raymond Cauchetier là một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng người Pháp sinh vào ngày 10 tháng giêng 1920 tại thủ đô Paris. Khi ông 31 tuổi (1951), ông cùng quân đội Pháp đến dán đảo Đông Dương và trong thời gian ông ở Việt Nam, ông đã thực hiện rất nhiều bộ ảnh về đời sống hàng ngày của lực lượng không quân Pháp cũng như những bộ ảnh về danh lam thắng cảnh và con người Việt Nam sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt.
    Năm 1955, ông đã cho xuất bản cuốn sách ảnh thứ hai có tên “Saigon” và những hình ảnh sau được trích từ quyển sách này của ông.

    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    NGƯỜI ĐẸP SÀI GÒN
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    MỘT ĐIỂM CHIẾU PHIM THOÁT Y Ở CHỢ LỚN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐẰNG TRƯỚC NHÀ HÁT LỚN SÀI GÒN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    LÀM PHƯỚC Ở ĐỀN VÀ MỘ CỦA TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT HAY CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ LĂNG ÔNG (BÀ CHIỂU) VÌ NẰM Ở KHU VỰC CHỢ BÀ CHIỂU (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐỀN VÀ MỘ CỦA TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT HAY CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ LĂNG ÔNG (BÀ CHIỂU) VÌ NẰM Ở KHU VỰC CHỢ BÀ CHIỂU (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    QUÁN HÀNG TRÀ Ở CHỢ LỚN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐI DẠO Ở VƯỜN BÁCH THẢO SÀI GÒN (1955) – NĂM 1956 VƯỜN BÁCH THẢO ĐƯỢC TU SỬA, TÁI THIẾT VÀ ĐỔI TÊN LÀ THẢO CẦM VIÊN SÀI GÒN
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    NGƯỜI ĐÀN BÀ BÁN THUỐT LÁ TRÊN VĨA HÈ (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    CẢNH NGƯỜI HÚT GIÓ Ở SÀI GÒN (1955)
    Nguồn: https://www.cochinchine-saigon.com/
  • Vài nét sinh hoạt của người Sài Gòn xưa

    Vài nét sinh hoạt của người Sài Gòn xưa

    Trong tác phẩm La geste française en Indochine (Thành tích của người Pháp tại Đông Dương), Georges Taboulet xác nhận rằng vào năm 1859, trước khi lọt vào tay quân Pháp, Sài Gòn chưa phải là một thành phố đúng nghĩa, mà chỉ là một khu vực quần tụ của 40 làng mạc nằm kề nhau và không có một tổ chức chung. Thực ra, trong tổ chức của chính quyền Đàng Trong, từ năm 1698, Sài Gòn đã ở trong một cơ cấu hành chính ổn định (thuộc huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn). Dù sao cách nhận định của Taboulet cũng cho ta ý niệm rằng sinh hoạt của người Sài Gòn trước thập niên 1860 còn rời rạc, thiếu tính chất quy mô, gắn bó của một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ.

    Tháng 8 năm 1861, Đề đốc Bonard thay thế Phó Đô đốc Charner trong cương vị tư lệnh quân viễn chinh Pháp. Viên tướng hải quân này bắt tay vào việc chỉnh trang Sài Gòn theo một kế hoạch tương đối quy mô do một trung tá công binh thực hiện. Nhiều con đường lớn bắt đầu xuất hiện và từ sau năm 1863, nhiều kiến trúc kiên cố mọc lên như dinh Đổng lý Nội vụ – còn gọi là dinh Thượng thơ (1864), dinh Thống đốc (1868), Nhà thờ lớn (1877)… Đến năm 1865, Sài Gòn đã có 15,350km đường lộ, hai bên đường đều có trồng cây, thường là me, bàng hay tếch. Ban đêm, chính quyền thực dân cho thắp sáng các con đường bằng đèn dầu dừa.

    Theo nhận định của một số tác giả Pháp, nhờ mạng lưới sông ngòi chằng chịt, khả dụng quanh năm, Sài Gòn có một hệ thống thủy văn hoàn hảo nhất, giúp cho việc canh tác lúa và các hoa màu khác đạt hiệu quả cao, đồng thời cũng là phương tiện giao thông quan trọng từ các nơi khác đổ về. Đó cũng là lý do khiến một số khá lớn người dân Sài Gòn xưa sống chủ yếu ven sông rạch để tiện việc đi lại, mua bán. Trong những thập niên 1860-1870, phương tiện di chuyển chủ yếu của người Sài Gòn là ghe thuyền, đậu chật ních các bến sông. Phương tiện đường thủy này dùng chuyên chở hàng hóa từ các vùng xa đến Sài Gòn mua bán, một số dùng đưa rước khách sang sông hay di chuyển trên những quãng sông ngắn. Trên bộ, phần lớn cư dân đi bộ, những nhà giàu có sử dụng xe kiếng (malabare). Loại xe này không rõ bắt đầu xuất hiện từ năm nào nhưng đã thấy đề cập đến trong hồi ký Un an de séjour en Cochinchine (Một năm lưu trú ở Nam kỳ) của một dược sĩ Pháp tên là M. Delteil, xuất bản tại Paris năm 1887. Xe có bốn bánh, do một ngựa kéo, thùng xe bằng gỗ có cửa kính để khách ngồi trong xe có thể nhìn thấy quang cảnh trên đường đi; điều khiển xe thường là người Mã Lai, gọi là xà ích (sais, gốc tiếng Mã Lai). Đến cuối thập niên 1880, Sài Gòn, Chợ Lớn bắt đầu có xe kéo, làm phát sinh thêm một thành phần mới trong xã hội thuộc địa là phu xe kéo. Người ta còn đọc thấy trong biên bản họp của Hội đồng thành phố vào ngày 20.1.1888 một tờ trình cho viên đốc lý Sài Gòn, đề nghị cho lưu hành xe kéo tại Sài Gòn vì ở Chợ Lớn, chính quyền đã cho loại xe này hoạt động rồi.

    Thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa
    Thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa

    Điểm đáng lưu ý là sau khi Pháp đánh chiếm toàn bộ Nam kỳ và chính thức thuộc địa hóa vùng này bằng hòa ước Giáp Tuất 1874 ký với triều đình Huế, số người châu Âu, nhất là người Pháp, đến Sài Gòn ngày càng đông. Vào thập niên 1880, khách sạn nổi tiếng của Pháp ở Sài Gòn là Favre do một người Pháp tên là Favre khai thác. Khách sạn nằm trên đại lộ chính Catinat giới hạn bởi hai con đường Bonard và d’Espagne (Lê Lợi và Lê Thánh Tôn ngày nay), một trong những nơi náo nhiệt nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.

     

    Sự hiện diện của một số người Âu sống trong khách sạn hoặc thuê nhà riêng làm phát sinh một số nghề mới trong cư dân bản xứ. Trước tiên là nghề giúp việc nhà và nghề làm bếp cho Tây. Giúp việc nhà thường là người Việt, tuổi khoảng 18-20, được chủ Tây gọi là “boy” (cậu con trai), nghe quen thành ra “bồi”. Công việc của người này là hầu bàn, lo nước tắm, dọn phòng và cả kéo quạt nữa, với mức lương từ 6 đến 8 đồng mỗi tháng, chỉ bằng 1/4 đến 1/5 tiền ăn hàng tháng tại khách sạn của một người Âu. Đầu bếp nấu ăn cho Tây thường là người gốc Hoa, lương từ 8 đến 10 đồng/tháng. Họ làm quen rất nhanh với cách nấu ăn của Tây và biết chiều theo sở thích của chủ. Thông thường người đầu bếp đến nhà của chủ làm những công việc theo thỏa thuận, đến chiều họ trở về nhà, sau khi nhận từ tay chủ khoản tiền đi chợ sáng hôm sau, vào khoảng 0,60 đồng đến 1 đồng cho hai người ăn. Nếu gia đình người Âu có con nhỏ cần người giúp việc là phụ nữ, họ liên lạc với trường Sainte-Enfance để các “sơ” (soeur) ở đây cung ứng người của trường. Những gia đình đông đúc, cần di chuyển thường xuyên sẽ sắm một xe kính và thuê một xà ích lương từ 12 đến 20 đồng/tháng, không ăn cơm chủ. Khách ở khách sạn thường được chào mời bởi một đội ngũ những người bản xứ làm nghề giặt là, cắt may, đóng giày,… Công giặt ủi (là) một bộ quần áo khoảng 2,5 đồng và nghề giặt ủi phát triển mạnh trên đường Catinat. Trong nghề may quần áo và đóng giày, người Tàu có nhiều ưu thế hơn người Việt. Một bộ complet thêm áo gilet, cả công may lẫn vải khoảng 8 đồng, được đánh giá là khá rẻ.

    Sinh hoạt của những người Âu vào cuối thế kỷ XIX khá đơn điệu. Họ dậy lúc 6 giờ sáng, làm vệ sinh và đi làm cho đến 10 giờ. Bữa ăn trưa diễn ra lúc 10 giờ 30 phút, dưới những chiếc quạt kéo, vì lúc đó trời đã bắt đầu nóng nực. Giữa trưa, họ lên phòng và kéo dài giấc ngủ trưa đến 2-3 giờ chiều. Lúc này, Sài Gòn rất yên lặng, cửa hàng đóng cửa im ỉm, cửa nhà cũng không mở. Từ 2-3 giờ chiều, thành phố thức giấc, mỗi người quay lại công việc đang chờ cho đến 5 giờ chiều mới trở về nhà. Đó là lúc mà thành phố tỏ ra náo nhiệt nhất.

    Sài Gòn thập niên 1880 có vẻ thích hợp với câu nói mà người ta thường gán cho Paris. Đấy là “thiên đường của phụ nữ và địa ngục của loài ngựa”. Thực vậy, chỉ riêng Sài Gòn lúc đó đã có đến 400 chiếc xe ngựa cho thuê! Bữa cơm tối của người châu Âu tại Sài Gòn bắt đầu lúc 19 giờ 30 phút, khi màn đêm đã buông xuống hoàn toàn. Sau đó, phần lớn thanh niên và những người độc thân đến các câu lạc bộ hay vào các quán cà phê, ngồi uống bia ướp lạnh và có khi vui chơi đến sáng. Từ khi tình trạng vệ sinh ở Sài Gòn được cải thiện, nhiều phụ nữ người Âu kéo sang Việt Nam sống cùng với gia đình; sinh hoạt ở các câu lạc bộ hay quán cà phê lắm lúc được chuyển về những gia đình hiếu khách. Ở đó, họ nghe nhạc, nói chuyện, đánh bài và thường thì buổi gặp gỡ kết thúc bằng một cuộc khiêu vũ kéo dài đến nửa đêm. Ngoài những buổi họp mặt thân mật như thế, hàng năm có một hoặc hai buổi khiêu vũ đông người, dành cho giới trẻ trong thành phố và một buổi khiêu vũ chính thức tổ chức tại dinh Thống đốc Nam kỳ.

    Tại sao gọi Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông?

     

    Cuộc sống của người Âu là cả một thiên đường so với những người dân đang sống chen chúc trên các sông rạch hoặc dãi dầu trên ghe thương hồ rày đây mai đó. Số người kiếm được bơ sữa của Tây bằng nghề bồi bếp không bao nhiêu so với người dân Sài Gòn “đầu đội trời, chân đạp đất” kiếm sống hằng ngày. Đầu thế kỷ XX, có một phụ nữ Anh lấy chồng là bác sĩ thuộc địa người Pháp, chỉ sau đám cưới vài tuần lễ đã phải theo chồng sang công tác ở Viện Pasteur Nha Trang. Trong những ngày sống ở Sài Gòn chờ ra Nha Trang, bà Gabrielle M. Vassal đã có dịp quan sát sinh hoạt tại thành phố này và miêu tả trong tập hồi ký Mes trois ans d’Annam (Ba năm sống ở Việt Nam của tôi). Khi mới đến thành phố, Vassal đã di chuyển bằng xuồng tam bản và một trong những bối rối đầu tiên của bà là không làm sao phân biệt được giới tính của những người chèo xuồng. Họ ăn mặc gần như nhau, chỉ có những khác biệt nhỏ mà phải sau một thời gian, Vassal mới phân biệt được. Thời đó, người Sài Gòn, nam cũng như nữ, đều mặc quần dài và áo rộng, tóc cũng đều cuộn lại thành búi tó. Quan sát kỹ mới thấy ở phụ nữ, búi tó nằm ở vị trí cao hơn, phía trên đầu, chiếc áo rộng cũng dài hơn. Về vóc dáng người Sài Gòn đầu thế kỷ XX, đàn ông ít khi vượt quá 1,60m chiều cao, phụ nữ còn thấp bé hơn nữa. Mặc dù vậy, họ là những người chèo xuồng rất thiện nghệ. Các phu kéo xe cũng thế, họ có thể kéo dễ dàng một người Âu nặng gấp đôi trọng lượng cơ thể họ.
    Với sự hiện diện của nhiều người Âu, cảnh chợ búa ở Sài Gòn cuối thế kỷ XIX diễn ra khá náo nhiệt. Phía ngoài chợ là cửa hàng của người Ấn Độ mà có người gọi là Matabar. Họ bán đủ loại hàng hóa, nhất là vải vóc. Cách buôn bán của họ không giống người Tàu. Khách hàng của họ nhiều nhất là phụ nữ. Buổi sáng, chợ là một tập hợp của rất nhiều người, đủ mọi sắc tộc, các đầu bếp người Tàu và An Nam, người đổi tiền Ấn Độ…

    Để làm sạch đường phố trong mùa khô, chính quyền thành phố Sài Gòn cho xe đi tưới nước trên đường mỗi ngày hai, ba, thậm chí bốn lần. Đến thập niên 1880, đường phố Sài Gòn đã có 5 đại lộ, 39 đường và 3 bến tàu, dài tổng cộng 36,635km; so với năm 1865, đã tăng thêm hơn 20km. Trước năm 1878, nước uống của cư dân thường lấy từ các giếng đào cạn hay sông, rạch nên không đảm bảo vệ sinh. Sau này, chính quyền thực dân Pháp cho lấy nước từ một con suối, đưa vào bể lọc và cung cấp cho dân thành phố mỗi ngày 16.000m3 nước. Năm 1878, một tháp nước khổng lồ được xây dựng ở đầu đường Catinat, tại vị trí nay là Hồ Con Rùa. Tháp nước này tồn tại được 48 năm, đến năm 1921 thì bị phá hủy.

    Ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX, mỗi chiều người ta thấy từng tốp công nhân bản xứ trên đường đi làm về. Nổi bật trong số họ là các “thầy thông ngôn”, không búi tó như hầu hết dân bản xứ. Họ đã húi tóc ngắn (như phong trào cúp tóc năm 1907), mặc quần dài trắng, mang giày tất ngắn, đầu đội khăn nhiều nếp. Các nông dân mặc quần dài trắng, áo rộng màu xanh sẫm, đôi khi vá chằng vá đụp. Họ đi hàng một bên đường, người này bước sau người kia, chân không mang giày dép gì cả. Một vài người cầm trên tay một đôi giày păng-túp (pantoufle) kiểu Tàu mà họ cố để dành cho những dịp trọng đại, tay kia cầm một chiếc dù che trên đầu. Đối với người nông dân ở Sài Gòn thời đó, có một chiếc dù, loại dành cho các quan lại khi xưa là một điều hãnh diện lớn. Còn công nhân làm ở các hãng xưởng thì thay cho chiếc khăn quấn quanh đầu như các thầy thông ngôn là một chiếc khăn mùi soa (mouchoir) hoặc một mảnh vải nhỏ quấn vụng về trên búi tó.

    Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

     

    Phụ nữ Sài Gòn xưa cũng như đàn ông, không bao giờ đi sóng đôi trên đường. Từ chợ về, họ gánh hai chiếc giỏ cân bằng nhau nên bước chân vẫn nhẹ nhàng. Để đổi chiếc đòn gánh qua vai khác, họ chậm bước chân lại, cúi đầu xuống và đưa chiếc đòn qua cổ, ít khi chịu đặt quang gánh xuống đất. Những phụ nữ bản xứ có mức sống cao thì ngồi xe kéo, đầu đội một chiếc khăn bằng lụa màu nhạt hoặc dùng một cái trâm bằng vàng cài lên chiếc búi tó đen nhánh. Khi mặt trời đã ngã về Tây, các gia đình người Việt ở Sài Gòn tụ họp trước ngôi nhà nhỏ, bên cạnh mâm cơm. Nếu bữa cơm đạm bạc chưa được người nội trợ lo xong thì người cha hay người đàn ông trong gia đình lo việc bồng ẵm đám trẻ nhỏ. Lúc trời đã tối mịt, người ta đốt đèn dầu trên các bàn thờ và thắp hương. Tất cả vào nhà đóng cửa lại. Sự im lặng của khu xóm thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng khóc của một đứa trẻ và lời ru nhè nhẹ của người mẹ.

    SG, 29.11.2017

    Nguồn: Trích từ sách ĐẤT SÀI GÒN VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI SÀI GÒN XƯA

  • Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Giữa trung tâm Sài Gòn từng tồn tại một pháp trường đặc biệt, nơi các vụ hành quyết diễn ra công khai trước sự chứng kiến của công chúng…

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Năm 1965, tình hình Miền Nam Việt Nam hết sức rối ren, các cuộc đảo chính, biểu tình và tấn công vũ trang diễn ra thường xuyên. Cùng với điều đó là nạn đầu cơ, lũng đoạn thị trường của giới thương gia. Trước tình hình này, chính quyền VNCH đã dựng lên phía trước chợ Bến Thành một pháp trường để hành quyết công khai các phạm nhân nhằm mục đích răn đe.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Mới đầu, pháp trường giữa trung tâm thành phố này chỉ được bố trí để xử bắn một người. Về sau nó đã được mở rộng để có thể hành quyết cùng một lúc ba người. Hoạt động của pháp trường đã bị truyền thông quốc tế lên án mạnh mẽ, buộc chính quyền phải dẹp bỏ nó sau một thời gian.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Khung cảnh trên pháp trường ngày 6/10/1965, khi ba phạm nhân bị hành quyết cùng lúc vì những tội danh khác nhau.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Một vụ hành quyết nổi tiếng trong thời gian pháp trường hoạt động là vụ xử nhà tài phiệt Tạ Vinh, một người Việt gốc Hoa 34 tuổi. Ông bị kết tội đầu cơ phá hoại kinh tế và chịu án tử ngày 14/3/1966.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975
     
    Tạ Vinh gục xuống sau loạt đạn, trên người vẫn mặc bộ vest lịch sự.
    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Vợ ông Tạ Vinh đã liều mạng lao về phía chồng và bị cảnh sát chặn lại.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Bên cạnh các tội phạm hình sự, kinh tế, nhiều nhân vật đấu tranh chống chính quyền VNCH cũng bị hành quyết công khai.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Sinh viên Lê Văn Khuyên bị xử bắn ngày 29/1/1965, thời điểm Sài Gòn đang chấn động sau các cuộc biểu tình và nổ bom.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Cái chết của chàng trai 20 tuổi Lê Văn Khuyên.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Một chiến sĩ biệt động bị chính quyền VNCH xử bắn ngày 22/6/1965.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Cột hành quyết sau khi bản án tử được thi hành, ảnh của phóng viên Nhật bản Akimoto Keiichi.

    Theo KIẾN THỨC

  • Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm

    Không ít người nhìn những bức ảnh xưa về Sài Gòn mà lòng ngậm ngùi….

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Học sinh ăn bò bía trên đường phố Sài Gòn những năm 1950.

    Quyển sách ảnh 150 hình bóng sài Gòn (NXB Trẻ, 2015) là thành quả của 10 năm sưu khảo, biên soạn những bức ảnh Sài Gòn xưa của NSNA Tam Thái, để kể lại câu chuyện vùng đất phồn hoa đô hội từ khi người Pháp đặt chân đến đô hộ, rồi đi qua thời mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông, cho đến tận ngày hôm nay.

    Tam Thái kể lại rằng có cụ già từ Đà Lạt xuống Sài Gòn xem triển lãm ảnh, biết tin quyển sách bèn tìm mua. Khi lật từng trang sách, cụ già xúc động, rưng rưng nước mắt. Hay có những người mua luôn 5 – 7 cuốn, không những cho mình mà cho luôn bạn bè, người thân như một món quà san sẻ kỷ niệm vùng đất Sài Gòn – Gia Định xưa.

    Cùng tìm về ký ức, nghệ sĩ nhiếp ảnh Tam Thái tiếp tục chia sẻ thêm một số bức ảnh Sài Gòn – Gia Định mà anh đã sưu tập và giới thiệu trong sách.

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Đường xe lửa Sài Gòn – Gò Vấp năm 1910. Người Pháp từng xây tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho, Sài Gòn – Chợ Lớn, Sài Gòn – Gò Vấp – Lái Thiêu – Thủ Dầu Một. Đến thời Ngô Đình Diệm, vì vắng khách nên các tuyến đường sắt ngưng hoạt động. Ga trung tâm của các tuyến đường sắt này nằm ở khu vực chợ Bến Thành ngày nay.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Con đường nối Sài Gòn – Chợ Lớn vào thế kỷ 19, thuở ấy còn rất hoang sơ, nay là đường Nguyễn Trãi.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Một chợ heo khu vực Phú Lâm cuối thế kỷ 19.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Vòng xoay Lăng Cha Cả thập niên 1950. Lăng thờ giám mục người Pháp Bá Đa Lộc, người có công giúp Nguyễn Ánh đánh triều Tây Sơn, nằm trên con đường Sài Gòn đi Cao Miên (đường Cộng Hòa ngày nay). Trước năm 1975, đây là một di tích văn hóa. Nhưng sau năm 1975, lăng bị giải tỏa, hài cốt giám mục Bá Đa Lộc được đưa về Pháp an táng.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Quang cảnh sân bay Tân Sơn Nhất đón chuyến bay cấp cứu vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng của Việt Nam, năm 1938. Trong một lần săn bắn ở Tây Nguyên, ông bị té gãy chân và được máy bay đưa về Sài Gòn cấp cứu.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Triển lãm mô hình phát triển Thủ Thiêm. Thời Ngô Đình Diệm, nhận thấy nếu phát triển khu trung tâm sẽ phá vỡ kiến trúc cũ thuộc địa, làm đảo lộn đời sống người dân nên chính quyền thời đó định bắc cầu, phát triển khu hành chính mới qua Thủ Thiêm. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên dự án này không thực hiện được. Hiện nay, quy hoạch phát triển Thủ Thiêm là khu hành chính mới đã được thành phố thông qua. Đoạt giải Nhất kiến trúc quy hoạch Thủ Thiêm là một công ty Nhật Bản.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Thuyền chiến của triều Nguyễn trên sông Sài Gòn thế kỷ 18, tranh vẽ của người Pháp. Thời kỳ này, giao thông đường bộ Bắc Nam còn hiểm trở, cho nên giao thông đường thủy là chính. Tư liệu cho thấy cả triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh đều có lực lượng thủy binh hùng mạnh, tiếp thu kỹ thuật đóng thuyền phương Tây. Những trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh trên đầm Thị Nại (Quy Nhơn) đáng được xem là những trận thủy chiến ác liệt nhất của lịch sử. Hằng năm, cứ khi trời trở gió nồm thì thủy binh Nguyễn Ánh từ Gia Định lại dong buồm ra miền Trung đánh quân Tây Sơn, đến khi gió bấc thì lại rút quân về. Dân gian có câu: “Lạy trời cho cả gió nồm/Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra”.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Bến Bạch Đằng năm 1956.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Logo Sài Gòn năm 1870. Khi chiếm Sài Gòn, người Pháp đã sáng tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sài Gòn 1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sài Gòn của người Pháp. Hiện nay, TP.HCM dù đã tổ chức các cuộc thi những vẫn chưa tìm được một logo chính thức cho thành phố hôm nay.

    “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng…” – khi xưa nhà vua Tự Đức nhớ thương người vợ mà viết nên câu thơ tha thiết. Vậy với những ai mơ bóng Sài Gòn, lần theo những bức ảnh này để có một hành trình kỷ niệm ngược thời gian chăng?

    Theo TTO

  • Những nét văn hóa “rất Pháp” ở Miền Nam trước năm 1975

    Những nét văn hóa “rất Pháp” ở Miền Nam trước năm 1975

    Bộ ảnh này được nhiếp ảnh gia Pháp Jack Garofalo ghi lại năm 1974.

    Trong hình là những nét văn hóa mang hơi hướng Pháp ở miền Nam Vệt Nam.

    Những nét văn hóa Giao thông ở ngã tư Hàm Nghi – Tôn Thất Đạm. Những chiếc xe trong ảnh là của các hãng xe Pháp Renault và Citroën sản xuất.

    Những nét văn hóa

    Bánh mỳ baguette kiểu Pháp được bày bán bên lề đường.

    Những nét văn hóa

    Những người Pháp chơi bi sắt – bộ môn thể thao khai sinh ở Pháp – trong một câu lạc bộ ở Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Xưởng đóng tàu Caric của Pháp ở Thủ Thiêm, Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Quán rượu của một ông chủ người Pháp (người trong ảnh) sinh sống tại Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Ông chủ người Pháp của nhà hàng – quán bar ‘Le Colisée’ tạo dáng chụp ảnh với 3 nhân viên người Việt.

    Những nét văn hóa

    Rạp Vĩnh Lợi ở Sài Gòn với biển tên tiếng Pháp.

    Những nét văn hóa

    Nghĩa trang quân đội Pháp tại ngã tư Bảy Hiền, Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Một người đàn ông Pháp hút thuốc trước cửa hiệu của mình ở Di Linh, Lâm Đồng.

    Những nét văn hóa

    Học sinh dân tộc thiểu số tại nhà thờ Cam Ly ở Đà Lạt. Nhà thờ này do linh mục người Pháp Boutary cho xây dựng cuối thập niên 1960.

    Những nét văn hóa

    Các thiếu nữ người dân tộc thiểu số trong gian bếp của một trường dòng do người Pháp sáng lập tại Đà Lạt.

    Những nét văn hóa

    Một nữ tu với các bệnh nhân bệnh phong trước mộ Giám mục Pháp Jean Cassaigne tại trại phong Di Linh, Lâm Đồng.

    Theo Tachcafe

  • Rue Catinat – con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Rue Catinat – con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trong quyển “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” (NXB. Đinh Thái Sơn, Sài Gòn, 1909), nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam thời Pháp thuộc Nguyễn Liên Phong đã mô tả đoạn đầu đường Catinat (sau đổi tên thành Tự Do, và Đồng Khởi ngày nay) vào đầu thế kỷ 20 như sau:

    “Nhứt là đường Ca-ti-na,
    Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
    ..Máy may mấy chỗ quá nhiều,
    Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
    Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
    Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
    ..Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
    Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son”

    “Rue Catinat” là tên gọi của đường Đồng Khởi ngày xưa. Nếu Sài Gòn đã tồn tại hơn 300 năm có lẻ thì ắt hẳn Catinat đã phải đồng hành cùng đô thị phồn vinh này hơn 2/3 chặng đường và chứng kiến vùng đất Gia Định xưa trải qua bao nhiêu biến động lịch sử.  Có lẽ cũng chẳng ngoa khi ví Đồng Khởi như một cầu nối thời gian giữa Sài Gòn hiện đại và cũ xưa. “630 thước vàng ngọc” đã qua nhiều lần đổi tên từ Rue 16, Rue Catinat đến Tự Do và cuối cùng nó chính thức mang tên Đồng Khởi.

    Theo nhiều tư liệu thì “Rue Catinat” được xem là con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn. Đây cũng là con đường đầu tiên được thiết lập khi Pháp quy hoạch lại thành phố sau khi chiếm được và phá thành Sài Gòn. Còn được gọi là “Rue no. 16” lúc ban đầu cho đến khi là con đường được tráng nhựa đầu tiên, “Rue Catinat” nhanh chóng trở thành trung tâm sinh hoạt thương mại của thành phố.

    Sau khi các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, xe lửa), công sở, cơ quan hành chánh và thương mại được thống đốc dân sự Le Myre de Vilers (1879 – 1883) năng động khởi công và thúc đẩy hoàn thành, Sài Gòn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sau hơn 35 năm bị Pháp chiếm đóng, đã trở thành một thành phố có cảnh quan được quy hoạch hài hòa, kiến trúc khu trung tâm có nhiều nét tương đồng các thành phố ở châu Âu. Thậm chí, các du khách đến từ Âu châu và Viễn Đông (chỉ các nước Đông Á) đã có cảm nhận chung Sài Gòn là “Perle de l’Orient” đối với người Pháp, hay “Paris of the East” đối với các du khách từ các quốc gia hay thuộc địa nói tiếng Anh trong vùng Viễn Đông.

    Để cảm nhận lại hơi thở Sài Gòn xưa trên Rue Catinat, ta có thể đi từ đầu đường, phía bờ sông Sài Gòn, đến phía cuối đường có dốc lên thoai thoải đến Nhà thờ Đức Bà (xưa kia vị trí này là trung tâm của thành Phiên An, tức thành Quy, thời vua Gia Long).

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Bức ảnh được chụp cuối thế kỷ 19 này ghi lại đoạn đầu đường Catinat. Vị trí ngôi nhà bên trái có người đàn ông đứng tựa cửa, cũng là số 1 đường Catinat, sau này sẽ là khách sạn Majestic.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trong một bức ảnh của nhiếp ảnh gia Ludovic Crespin (có cửa tiệm “Photo Studio” ở số 136 đường Catinat) được cho là chụp vào khoảng cuối thập niên 1910 và đầu 1920, phía trái hình là hai tiệm đổi tiền của ba người Ấn (mà người Pháp gọi là “malabar”), số 1 đường Catinat của ông Mougamadou Abdoullah (1909), ông Mougamadou Oussaine (1910) và số 1bis của ông Mougamade Abdoullah (3) (theo niên giám Đông Dương 1909, 1910)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trong một bức ảnh được chụp sau đó, vị trí bên trái đầu đường Catinat là khách sạn “Hôtel d’Annam” (Nam Việt khách lầu) của ông Huỳnh Huệ Ký

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Ở phía đối diện là quán Cafe de la Rotonde nằm ở địa chỉ số 2 Catinat. Bên phải bức ảnh là đường Quai de Belgique (đường Tôn Đức Thắng ngày nay) với hai hàng cây ở một bên hè. Bức ảnh được chụp vào năm 1901, lúc này Sài Gòn vẫn dùng loại đèn thắp dầu để chiếu sáng.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Ngôi nhà số 1 Catinat sau đó bị phá bỏ để xây dựng khách sạn Majestic

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic được xây dựng bởi công ty thuộc quyền sở hữu của thương gia người Việt gốc Hoa giàu có bậc nhất miền Nam Việt Nam thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (hay còn gọi là Chú Hỏa)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic thuở ban đầu có 3 tầng lầu, 44 phòng ngủ do một kiến trúc sư người Pháp thiết kế

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1948 Sở Du lịch và Triển lãm Đông Dương (The Indochina Tourism & Exhibition Department do ông Franchini Mathieu – một người Pháp – điều hành) mua lại toàn bộ tầng trệt và lầu 1 khách sạn và thuê 44 phòng trong thời hạn 30 năm.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Cũng như Bảo tàng Mỹ thuật hay Nhà khách Chính phủ, khách sạn Majestic được xây dựng theo phong cách Baroque rất được ưa chuộng thời bấy giờ và ngay cả hiện nay. Nó mang dáng vẻ kiến trúc cổ châu Âu thời phục hưng, cổ kính và sang trọng bậc nhất Sài Gòn ngay khi xây xong vào năm 1925.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic sở hữu tầm nhìn thoáng rộng ra sông Sài Gòn

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Bến sông sau đó được cải tạo thành công viên

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Lúc này đường Catinat được đổi tên thành Tự Do. Từ sau 1975, đường Tự Do được đổi tên thành Đồng Khởi.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic được xếp hạng 5 sao vào năm 2007. Khu mới (trên đường Nguyễn Huệ) của khách sạn Majestic được khởi công xây dựng vào tháng 7.2011, sẽ bao gồm 2 khối tháp cao 24 tầng và 27 tầng, 4 tầng hầm, với 353 phòng mới. Sau khi hoàn thành, khách sạn Majestic mới sẽ có tổng cộng 538 phòng.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Một chiếc xe kéo đoạn đầu đường Catinat. Theo nhiều tài liệu thì xe kéo xuất hiện đầu tiên tại Hà Nội vào năm 1883 do Toàn quyền Bonnal cho đem từ Nhật qua. Gần 15 năm sau Sài Gòn mới biết tới loại xe kéo này (trước đó đây phương tiện di chuyển duy nhất ở đây là xe ngựa).

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Tòa nhà ngay góc ngã tư Catinat – Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay). Đây cũng là ngã tư đầu tiên của đường Catinat.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Ngày 24.10.1930, ông Henry Edouard Charigny de Lachevrotière – Tổng biên tập của một tờ báo Pháp có được giấy phép chính thức mở Grand Hotel Saigon. Khi đó nó chỉ là một cửa hàng nước giải khát nhỏ nằm ở góc đường Catinat và Vannier (Ngô Đức Kế)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1937 Grand Hotel đổi tên thành Saigon Palace

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

     

    Tên gọi “Saigon Đại Lữ Quán” có từ năm 1958

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

     

    Nằm ở số 130 Catinat là quán cà phê kiêm khách sạn Café de la Terrace, bên cạnh quảng trường Francis Garnier (quảng trường Nhà hát Lớn, tức Nhà hát Thành phố ngày nay)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Cạnh khách sạn và quán Café de la Terrace nổi tiếng, ở số 128 Catinat là tiệm tạp hóa của bà Wirth. Ngoài bán hàng, bà Wirth còn sản xuất và thương mại hóa các ảnh “cartes postales” từ cuối thế kỷ 19 với các ảnh xưa ở Sài Gòn, quý hiếm trong giai đoạn đó cho đến đầu thế kỷ 20.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

     

    Cạnh ngôi nhà đầu đường, ở số 157bis Catinat là một tiệm bánh ngọt (patisserie) của ông Marius Rousseng

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1923 Sài Gòn khai thác tuyến xe điện đầu tiên (trước đó, từ năm 1881, người Sài Gòn đã gọi các tramways là tàu điện dù thực chất đó là tàu hỏa chạy bằng dầu và than). Café de la Terrase trong bức ảnh này đã đổi thành L’information d’Extreme-Orient.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Sài Gòn những năm 1950s. Lúc này, L’information d’Extreme-Orient (vị trí cũ của Café de la Terrase) đã đổi thành tên thương hiệu thuốc Aspirine – Usines du Rhône

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trạm xe điện ngay trước vị trí của Café de la Terrase trước kia

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1957 trên khu đất trước đây là Cafe de la Terrase đã khởi công xây dựng khách sạn Caravelle bởi các nhà đầu tư lớn của Air France và chính phủ Úc. Khách sạn chính thức khai trương vào đêm Giáng sinh 1959.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Caravelle đặt theo tên một loại máy bay của hãng hàng không Air France. Hãng này có văn phòng ở tầng trệt của khách sạn. Điều thú vị là ngày nay văn phòng bán vé Air France vẫn còn duy trì hoạt động ở tầng trệt Caravelle.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài GònKhách sạn Caravelle ngày trước

    Nguồn: saigonamthuc.thanhnien.com.vn

  • Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

    Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

    So với miền Bắc và các vùng nông thôn Việt Nam thời kỳ đó, trang phục của các quý cô Sài Gòn đã có nhiều thay đổi, phóng khoáng hơn, “Tây” hơn và nhiều màu sắc hơn. Trên đường phố Sài Gòn thời điểm đó không thiếu bóng dáng những chiếc váy suông, váy xòe hay bó sát gợi cảm. Phái đẹp ngày ấy cũng đã biết cách phối đồ váy áo với phụ kiện, giày dép khá cầu kỳ.

    Thiếu nữ Sài Gòn trước năm 1975 đã diện mốt chân váy ôm kết hợp cùng sơ mi sát nách như những cô gái công sở ngày nay

    Hai trang phục xưa cũ và giản dị nhất là chiếc áo bà ba truyền thống và áo dài chiết eo trứ danh. Áo bà ba xuất hiện không nhiều ở thành thị, thường chỉ những người già hoặc người làm công việc lao động chân tay như bán hàng rong vỉa hè hay trong các khu chợ mới thường mặc.

    Còn áo dài lại được phụ nữ Sài Gòn khi ấy coi là một thứ váy áo mặc hàng ngày chứ không phải một “bộ cánh” chỉ được trưng diện những dịp trọng đại một năm vài lần. Họ có thể mặc áo dài đi tiệc, đi làm hay đi học, và cả khi xách giỏ đi chợ. Áo dài trước năm 1975 được may kiểu phom dáng không quá ôm khít cơ thể như bây giờ, với cổ cao kín đáo và đường chiết eo “trứ danh” nhằm tôn lên vẻ đẹp thắt đáy lưng ong của người phụ nữ.

    Áo bà ba, áo dài dành cho những phụ nữ ưa phong cách ăn mặc truyền thống, kín đáo và đầy nữ tính. Còn váy ngắn, váy xòe hay trang phục ôm sát dành cho những quý cô chuộng nét đẹp phương Tây hiện đại, thời thượng và gợi cảm.

    Phụ nữ Sài Gòn xưa chuộng mốt áo tân thời thắt eo, ngực nhọn

    Những phụ nữ bán hàng, chạy chợ quen thuộc với chiếc áo bà ba, nón lá giản dị

    Với thời trang nam lúc bấy giờ, những đôi tông Lào hay dép quai hậu nhựa dẻo đang rất thịnh hành

    Thiếu nữ Sài Gòn sành điệu với mốt phối kính mát cùng các loại trang phục, từ áo phông, quần bó khỏe khoắn đến áo dài mềm mại

    Những phụ nữ chuộng vẻ đẹp phương Tây ưa thích kiểu tóc ngắn đánh bồng phồng cao, còn các cô gái truyền thống giản dị với tóc xõa hay cột gọn gàng với chiếc kẹp ba lá

    Mốt “xuyên thấu” gợi cảm cũng đã manh nha xuất hiện trên phố Sài Gòn những năm 60, 70

    Bà Tuyết Mai (mẹ của MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên) và nữ diễn viên Kiều Chinh trong tà áo dài được cách tân phần cổ áo năm 1961

    Cách phối áo dài truyền thống với băng đô đồng màu vẫn được nhiều cô gái Việt Nam thời hiện đại ưa chuộng

    Hai thiếu nữ Sài Gòn xưa rất biết cách phối đồ khi mặc nguyên “cây” đỏ cực “chất” hay chiếc váy suông không tay hoa văn xanh kết hợp cùng sandals ton – sur – ton

    Dáng váy suông đuôi cá nhiều màu sắc trên phố Sài Gòn xưa (trái)

    Thiếu nữ Việt Nam hơn 40 năm về trước (trái) đã diện áo ngắn mang dáng dấp crop top, tay đeo đồng hồ, tóc đánh bông hiện đại kết hợp cùng kính mát tối màu sành điệu

    Kiểu dáng mũ bê rê từng xuất hiện tại Sài Gòn xưa cũng vẫn được các cô gái trẻ ngày nay yêu thích.

    Xưa chưa bao giờ là cũ. Điều này trong thời trang luôn luôn đúng. Đừng vội nghĩ rằng là thời nay mình thật sành điệu và các bà các mẹ thật lỗi thời bởi ngay từ xưa, những bậc sinh thành của chúng mình vốn cũng từng “chất” và oách chẳng kém gì chúng mình bây giờ đâu.

    Nếu bạn nghĩ rằng các bà các mẹ của chúng mình thật “lỗi thời” thì xin thưa rằng, họ cũng đã từng có lúc sành điệu chẳng kém gì chúng ta bây giờ. Thậm chí nhiều xu hướng hiện tại mà chúng ta áp dụng vốn đã được ưa chuộng từ tận nửa thế kỷ trước.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Không tin ư, hãy cùng nghía qua một số xu hướng dưới đây từ Sài Gòn xưa những năm 60, để rồi bạn sẽ thấy là, đúng là giống thật!

    Váy suông ngắn

    Cứ mỗi khi hè về là các nàng lại lao ngay ra shop, mua về một cơ man nào là váy suông và váy dáng chữ A thoải mái. Đúng là rất hợp mốt, nhưng câu chuyện về những chiếc váy ngắn đầy nữ tính như thế này đã bắt đầu từ thời bà và mẹ của chúng mình cơ.

    Nhắc đến thời trang những năm 50s-60s, đặc biệt là những năm cuối của thập niên này thì chắc hẳn không thể không nhắc đến những chiếc váy dáng suông rộng rãi – trang phục vốn được coi là một sự cách tân mang tính lịch sử trong ngành thời trang lúc bấy giờ. Kiểu váy này mang lại cho người mặc cảm giác vô cùng thoải mái, mà vẫn thanh lịch và mang chút cổ điển.

    Ngày nay váy suông được biến tấu với đủ chất liệu và chi tiết bắt mắt, nhưng nhìn chung, chúng cũng không quá khác biệt so với kiểu dáng ngày xưa là mấy.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Block heels

    Từ trước khi nhường chỗ cho những đôi giày gót nhọn hoắt đầy gợi cảm, giày đế thô là phụ kiện mang tính “quốc dân” của phụ nữ Sài Gòn xưa. Kiểu giày này đi rất vững chân mà trông lại cá tính vô cùng.Ngày nay, giày đế thô đã được cách tân với phần đế loe ra để trông “mềm dáng” và mới lạ hơn.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Kitten Heels với váy ngắn/quần loe

    Từ năm 2013, cả thế giới phát cuồng lên vì những đôi giày kitten heels với phần mũi nhọn,gót thấp và nhỏ nhắn. Kiểu giày này chinh phục giới thời trang bởi nét xinh xắn, trẻ trung nhưng lại sang chảnh và khá dễ diện đồ. Mẫu giày huyền thoại này đã được phát triển thành nhiều kiểu dáng đa dạng hơn, với đủ thiết kế từ tối giản cho quý cô thanh lịch cho đến phá cách cùng chi tiết đinh tán, color block, in họa tiết… cho những cô nàng mạnh mẽ.

    Thực chất kitten heels cực thịnh vào những năm 60. Cứ sải bước ra phố ở Sài Gòn là lại bắt gặp các quý cô ăn vận chỉnh tề, thong dong sải bước trong đôi kitten heels. Cũng chính vì gắn liền với thời gian đó nên mỗi khi nhắc đến kitten heels thì ấn tượng đầu tiên luôn là “vintage”.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Kính râm

    Nếu được bình chọn xem đâu là món phụ kiện “bất ly thân” của các tín đồ thời trang Sài Gòn xưa thì đó ắt là kính râm. Hơn 50 năm trước, các bà các mẹ chúng ta không thể ra đường nếu không có một đôi kính râm thật oách trên khuôn mặt. Kiểu kính mà họ đeo cũng rất gần gũi với hiện tại, đủ kiểu dáng từ gọng vuông, tròn, mắt mèo và thậm chí có cả họa tiết.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Ngọc trai

    Dior và Chanel đang lăng xê “điên đảo” những món phụ kiện ngọc trai, và bạn thấy chúng quả đáng mê từ cái nhìn đầu tiên. Các bà các mẹ của chúng mình ở Sài Gòn xưa cũng thế đấy. Không cần cầu kỳ trong khoản phụ kiện, chỉ cần một chiếc vòng ngọc trai đeo sát quanh cổ là đã chứng nhận độ “sang” của các tín đồ thời trang lúc bấy giờ. Ngọc trai được phối từ trang phục dạo phố, áo dài cho đến cả… bikini.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Kẻ mắt mèo

    Trang điểm mắt khá đơn giản với một đường eyeliner màu đen và cong về phía đuôi mắt, thêm một chút phấn nâu để tán ở vùng chữ V hốc mắt. Điểm nhấn tập trung chủ yếu ở hàng mi cong vút, cặp chân mày được tô đậm nhưng mảnh và được vẽ cao hơn bình thường. Đây chính là cách kẻ mắt mèo của phụ nữ Sài Gòn xưa.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Lông mày rậm

    Kiểu lông mày rậm đang được cho là xu hướng “hot” của năm 2016. Lông mày rậm khiến cho đôi mắt bạn sâu và sắc nét hơn. Kiểu làm đẹp này vốn đã được nhiều nữ minh tinh, ca sỹ của thập niên 60 như Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương áp dụng.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Tóc Pin-up

    Sấy phồng mái tóc, kết hợp với kẻ mắt mèo và son đỏ là bạn sẽ trở thành một “Pin-up girl” chính hiệu. Kiểu tóc này ngày nay không còn được áp dụng rộng rãi vì nó hơi tốn thời gian và cũng bởi sự xuất hiện của… mũ bảo hiểm. Tuy nhiên nhiều người đẹp vẫn thích chọn tóc Pin-up khi tham dự các bữa tiệc. Ngay cả các ngôi sao nổi tiếng thế giới như Katy Perry vẫn còn mê mệt kiểu tóc này.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh
    HinhanhVietnam tổng hợp
  • Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975 đến bây giờ vẫn khiến bạn chết thèm khi ngắm ảnh

    Những bức ảnh ẩm thực vỉa hè Sài Gòn xưa cho thấy sự “trường tồn” của các món quà vặt tiêu biểu ở thành phố này như phá lấu, cuốn bò bía hay những cốc chè, ly mía đá.

    Được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông, Sài Gòn từ trước đến nay luôn hấp dẫn, năng động và có nhiều điều để nhớ nhung. Đối với người Sài Gòn, đặc biệt những người con xa quê, một trong những nhớ nhung, khắc khoải ấy chính là ẩm thực Sài Gòn mà đặc trưng nhất là những hàng quán ven đường, xe đẩy bán hàng rong.

    Thực tế những hàng quán ven đường, trên vỉa hè được xem là nét đặc trưng của Sài Gòn. Rất đơn giản, chúng chỉ là những gánh phở, xe kem, thùng tào phớ, tiệm bún, xe bò bía, gánh mận, những cốc si rô xanh đỏ…  Và chính những thứ tưởng như quá đơn giản và bình dị ấy lại bao chùm được tất cả bản sắc ẩm thực vỉa hè thú vị của thành phố này.

    Cùng ngắm bộ ảnh về ẩm thực vỉa hè Sài Gòn để khám phá thêm về Sài Gòn xưa .

    Xem thêm: Người Sài Gòn xưa giải khát thế nào?

     

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Sài Gòn phá lấu có nhiều thứ đáng nhớ nhưng nhớ tới nhớ lui lại nhớ cái mâm nhôm của mấy người Hoa đội trên đầu, cái ghế xếp đeo vai và tiếng kéo lách cách thay cho tiếng rao hàng… – ( Ảnh: ttvnol.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Bò bía – món khoái khẩu của học sinh Sài Gòn xưa và nay – ( Ảnh: flickr.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những xe bò bía với nguyên liệu đơn giản luôn đắt khách.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Người Sài Gòn xưa hẳn sẽ chẳng quên được xe mực nướng thơm lừng ven đường mỗi buổi chiều – ( Ảnh: saigonocean.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Mía ghim món ăn vặt rất được yêu thích ở Sài Gòn.  ( Ảnh: skyscrapercity.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
     Một cậu bé với khay mía ghim ở khu trung tâm -( Ảnh: tiengsonghuong )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những sọt bánh mì to đùng, thơm phức ở chợ Cũ đường Hàm Nghi -( Ảnh: skyscrapercity.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Xe bánh mì chả ở chợ hoa Tết, trên đường Nguyễn Huệ.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Chậu chè chuối nguyên quả hấp dẫn này sẽ khiến nhiều người phải nuốt nước miếng vì thèm  – ( Ảnh: 2saigon.vn )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Củ đậu sắn gọt sẵn, để trong tủ kính, sẵn sàng phục vụ thực khách – ( Ảnh: tccl )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một tiệm bán bánh ở Chợ Bình Tây. – ( Ảnh: David Staszak )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh trái cây trên đường phố Sài Gòn – ( Ảnh: Dr. William Bolhofer )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Siro ướp lạnh, món giải khát lý tưởng của thành phố có 2 mùa: nóng và rất nóng – ( Ảnh: vulep-photo )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Chùm ruột, xoài ngâm là những thức quà lúc nào cũng được ưa chuộng – ( Ảnh: saigoneer.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh bún trên đường Phan Châu Trinh, cửa tây chợ Bến Thành -( Ảnh: Flickr )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Quầy măng cụt ăn ngay tại chỗ.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Gánh hàng nem nướng ở góc đường Nguyễn Huệ – Ngô Đức Kế.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Cháo gà và chiếc lon Guigoz – vỏ sữa bột đựng đũa “huyền thoại”.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Các chị, các cô thời thượng không ngại ngồi hàng quán vỉa hè  – ( Ảnh: allanfurtado.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh xôi gà hấp dẫn – ( Ảnh: Tom Briggs )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Ứa nước miếng khi trót lạc vào tiệm vịt heo quay, xá xíu, lạp xưởng… – ( Ảnh: ttvnol )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Không thể không nhắc đến những xe nước mía – món đồ uống vô cùng được ưa chuộng ở Sài Gòn – ( Ảnh: tuxtini )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những gánh trái cây tươi ngon.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những xe chè thế này từng rất phổ biến ở Sài Gòn. Đến thập niên 90 vẫn còn vài chiếc xe chè, nước ngọt như chiếc này, nhưng đó trở di thì gần như đi vào dĩ vãng.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Cà phê vỉa hè là một phần quan trọng của ẩm thực Sài Gòn xưa. Thong dong ngồi trên ghế nhâm nhi ly cà phê mỗi sáng hay chiều tan sở là thói quen rất Sài Gòn của nhiều người Sài Gòn. – ( Ảnh: Flick )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt – những món đồ giải nhiệt không thể thiếu của Sài Gòn xưa – ( Ảnh: tommy japan )

    (Tổng hợp) : Bleu / Trí Thức Trẻ

  • Những hàng cây trăm năm xưa cũ ở Sài Gòn

    Những hàng cây trăm năm xưa cũ ở Sài Gòn

    Những hình ảnh hàng cây được trồng bên hai vệ đường từ thời Pháp thuộc cho thấy từ ngày xưa cây xanh ở Sài Gòn đã được quy hoạch và trồng một cách bài bản.

    Nhiếp ảnh gia Tam Thái là người đã có công sưu tầm những tư liệu quý về cây xanh ở vùng đất Sài Gòn xưa. Ngoài ra, chính ông cũng đã chụp lại nhiều hình ảnh cây xanh trong thành phố, trong đó một số cây hiện đã không còn nữa.

    Mời bạn xem những hình ảnh về cây xanh được trồng trong đô thị xưa của Sài Gòn.

    Cây xanh trên đường Duy Tân (nay là đường Phạm Ngọc Thạch).

    Bức ảnh “Thu về”, được chụp năm 1901. Mọi người đang dạo chơi trên một nẻo đường của phố Sài Gòn.

    Bức ảnh “La Route de Saigon” chụp đầu thế ỷ 20, nay là đường Nguyễn Trãi.

    Đường Chasseloup-Laubat, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai.

    Cây xanh được trồng trên đường Rue de Bankok, nay là đường Mạc Đĩnh Chi.

    Cây xanh trên đường Paul Blanchy, nay là đường Hai Bà Trưng. Ảnh chụp năm 1906.

    Hàng me trên đường Gia Long, nay là Lý Tự Trọng.

    Quảng trường trước Nhà hát thành phố nhìn ra đại lộ cây xanh Bonnard (nay là đường Lê Lợi, quận 1). Hàng cây cổ thụ bên phải, nằm trước hành lang Eden.

    Công viên Gia Định vào đầu thế kỷ 20.

    Hàng cây phượng vỹ trên đường đến cầu Bình Lợi vào đầu thế kỷ 20. Đây cũng là đường Thiên lý Bắc Nam trước thập niên 1950.

    Kênh Bonnard, hay còn gọi là kênh Hàng Bàng vì trên bờ sông có trồng nhiều loại cây bàng.

    Hàng cây xà cừ trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. Ảnh chụp năm 2005.

    Đường An Dương Vương, quận 10. Ảnh chụp năm 2006.

    Cây xà cừ trên đường Tôn Đức Thắng. Ảnh chụp năm 2013.

    Đại thụ chùa Hạnh Phú, quận 12. Năm 2012 đã không còn vì nhường đất cho dự án ven sông. Ảnh chụp năm 2000.

    Đại thụ chùa Hạnh Phú, quận 12. Năm 2012 đã không còn vì nhường đất cho dự án ven sông. Ảnh chụp năm 2000.

    Ảnh: tư liệu của nhiếp ảnh gia Tam Thái
    Theo Phạm Hữu/Thanh niên