Năm 1940, Dân Saigon còn gọi Xe đạp là xe máy, tuy đã bán ra khá nhiều nhưng không phải ai cũng có thể sở hữu dễ dàng. Nhiều nhà phải dành dụm thời gian dài mới sắm được và phải đi từng bước, mua xe cũ rồi tiến lên mua xe mới. Thời đó trừ một số ít người có xe hơi, ai nấy đi đâu thì cuốc bộ, đi xa thì dùng xe ngựa. Ai sắm được xe máy thì rất sướng, chủ động đến nơi mình muốn, thênh thang trên đường lộ là cảm thấy vui và có chút hãnh diện. Lúc đó còn là chú bé mới hơn mười tuổi, Phú mừng rơn khi bố dắt về chiếc xe đạp kiểu nam mua ở cửa hàng với giá gần 300 đồng bạc Đông Dương. Ngày nào bố không đi đâu, Phú mượn chiếc xe ra tự tập. Chân chưa đủ dài để ngồi trên yên hoặc trên khung đạp được một vòng bàn đạp, Phú luồn chân phải qua dưới ống sườn ngang để chạm bàn đạp phải. Bọn trẻ cùng xóm đứng xem trầm trồ ngó chiếc xe mơ ước đó.
Xe đạp ở Sài Gòn kể từ thập niên 1940 trở đi không cần phải đăng ký, mang biển số, không phải kê khai lý lịch và cũng không phải mua bảo hiểm. Người ta chỉ cần một tờ hóa đơn giấy mua bán hoặc giấy mua bán viết tay, có chính quyền địa phương thị thực là đủ. Giá cả thì rất phù hợp với túi tiền người dân. Có xe rồi, chỉ cần mua một ổ khóa nho nhỏ kèm sợi dây xích (gọi là khóa “ăn-ti-vôn” – đọc trại từ tiếng Pháp antivol – khóa chống trộm) khóa lại là xong. Thời đó hầu như không có trường hợp bẻ khóa ăn cắp xe,
Dân Saigon còn gọi Xe đạp là xe máy
Đến thập niên 1950 là thời hoàng kim của xe đạp ở Sài Gòn. Số xe đạp được dùng ở thành phố này tăng lên ngày càng nhiều, thầy thợ đều có xe để đi làm các công tư sở. Các trường trung học, trường nữ như Marie Curie, trường nam như Taberd, Chasseloup Laubat hầu như học sinh đều dùng xe đạp làm phương tiện di chuyển đến trường và về nhà.
Mức độ thông dụng của xe đạp gần như nó là đôi chân của con người. Một người từ tỉnh lên Sài Gòn chỉ cần đạp xe từ nhà ra bến xe đò, mua vé. Lơ xe đứng trên mui xe đón chiếc xe do khách tự đưa lên hoặc do người phụ lơ đưa lên mui. Họ ràng buộc rất chắc chắn, khách vô ghế ngồi. Xe đến Sài Gòn, lơ xe cởi dây thả xe xuống, khách nhận xe đạp đến địa chỉ cần tìm. Chẳng phải đi bộ bước nào. Ai nấy đều thấy quá tiện lợi, thậm chí có xe gắn máy cũng không làm được như vậy vì nặng nề.
Người dân Sài Gòn từ thầy, thợ, học sinh, đàn ông, đàn bà… hầu như ai cũng biết “cỡi” xe đạp. Tùy hoàn cảnh và địa vị trong xã hội mà người ta sắm những chiếc xe đạp phù hợp. Việc di chuyển bằng xe thổ mộ (xe ngựa) giảm dần, để rồi sau đó hầu như chỉ dành cho tiểu thương vận chuyển hàng từ nhà quê, ngoại thành ra các chợ và trở về khi chợ tan.
Cùng với sự phát triển xe đạp, sau này xe xích lô trở thành phổ biến. Nhà nào dù giàu hay nghèo cũng phải có ít nhất một chiếc xe đạp, đặc biệt các nữ sinh trung học, hầu như cô nào cũng có một chiếc xe đạp nữ với kiểu dáng thanh thoát.. Để tà áo dài của các cô nữ sinh khi di chuyển không bị dính vô các cây căm (nan hoa) của xe, bánh sau xe đạp nữ có thêm hai mảnh lưới đan nhiều màu sắc rực rỡ, che phủ gần phân nửa bánh sau, khiến chiếc xe nhìn càng duyên dáng.
Các loại xe đạp thời bấy giờ: kiểu xe chắc chắn, loại phổ thông là xe nam với ghiđông (tay cầm) hình chữ U, hai tay nắm vểnh cao để người điều khiển không phải cong người khi đạp cho xe di chuyển.
Loại này yên to, có lò xo dưới yên, còn poọc-ba-ga (porte bagage) được làm bằng thanh sắt đặc rất cứng. Hai tay thắng cũng bằng thanh sắt đặc uốn lượn theo ghiđông, song song với cổ xe, xuống đến đầu thắng.
Xe tuy cổ kính, nặng nề nhưng rất chắc chắn, người Hoa thường dùng loại xe này chở hàng. Có người đồn rằng ống tuýp để hàn sườn xe được hàn bằng ống tuýp nước, vừa rẻ vừa cứng chắc.
Xe kiểu cách, thời trang thường được nhập từ Pháp như các hiệu Reynold, Royal Stella, Peugeot. Các loại xe mang thương hiệu này là cao cấp nhất.
Giới thượng lưu chơi xe, thích nhất là sườn xe được làm bằng chất liệu nhẹ, chuộng nhất ở hiệu Reynold, với giá cao. Trong giới đua xe đạp, sườn xe đạp đua được ưa chuộng chỉ có hai loại, nhất là tuýp Reynold, nhì là tuýp hiệu Tube.
Xe nữ thì thanh tuýp ngang của xe nam được hạ xuống, chéo từ cổ xe xuống gần bàn đạp của trục yên xe. Riêng xe Royal Stella và Peugeot thì thanh chéo này được làm bằng hai thanh tuýp song song, uốn lượn xuống gần trục bánh xe sau….Năm 1960 có giá cỡ 1.000 $
Các cửa hàng buôn bán xe và phụ tùng ở Sài Gòn nhái theo các kiểu cách xe nhập cảng, hàn khung xe… nhưng do kỹ thuật hàn chưa tốt và chất liệu ống tuýp thường dày hơn xe Pháp, nên trọng lượng xe thường nặng hơn xe nhập cảng cùng kiểu dáng, có khi nặng hơn gấp rưỡi, lại dễ bị đứt mối hàn ở cổ xe, khiến người điều khiển bể mặt, gãy răng là chuyện thường nhật …
Ban đầu, mũ rơm được làm đơn giản từ những sợi rơm như nùn rơm nhưng bện nhỏ hơn và uốn theo hình nón, có nhiều cỡ cho từng lứa tuổi. Mũ rơm giúp cho người đội hạn chế sự sát thương của bom bi. Ngoài mũ rơm, những em học sinh thời chiến còn được cha, mẹ trang bị cho những nùn rơm nhỏ, đeo sau lưng giống như cái khiên… Những sợi rơm vàng thân thuộc đó đã trở thành hành trang cùng các em tới trường.
Ngay từ năm 1964, khi Mỹ tiến hành đánh bom miền Bắc, những chiếc mũ rơm đã được phổ biến rộng rãi. Những người từng sống và lớn lên trong thời kỳ đó hẳn ai cũng nhớ hình ảnh chiếc mũ rơm trên đầu học sinh khi cắp sách đến trường dưới làn bom đạn.
Lớp học ở sân đình, bàn ghế đơn sơ cùng chiếc nùn làm từ rơm
Các em học sinh nhanh chóng di chuyển vào hầm khi có báo động
Chiếc mũ rơm dày, nặng và túi thuốc cá nhân trên vai mỗi học sinh khi đến trường vào những năm chiến tranh đã trở thành quen thuộc, đã tạo nên những cảm xúc cho những nhà thơ để viết nên những vần thơ đẹp. Nhưng trên hết, hình ảnh những trẻ em đầu đội mũ rơm đến trường đã cho thấy: Các em đã được chuẩn bị tâm thế để “sống chung với bom đạn chiến tranh”, biết tự phòng, chống để tự cứu mình. Có lẽ do chiến tranh hiện diện quá lâu nên trở thành quen, không còn là nỗi ám ảnh, âu lo cho mọi người, kể cả với những em nhỏ. Họ đã bình tĩnh đi qua chiến tranh…
Những bức ảnh học sinh đội mũ rơm đi học nằm trong triển lãm Trẻ em thời chiến được trưng bày tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) từ ngày 1 đến 5/6. Mũ rơm đi học là phong trào của học sinh miền Bắc, ra đời trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Học sinh, trẻ em đến trường, ra ngoài lao động đều đội mũ rơm tránh bom, đặc biệt là bom bi rất nguy hiểm. Thời kỳ chiến tranh phá hoại, Hải Phòng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của bom đạn. Các lớp học ở An Hải (huyện cũ) đều có trần lợp rơm khá dày.
Lớp học ở sân đình, bàn ghế đơn sơ, có thêm mũ rơm và chiếc túi cứu thương làm bạn với học trò.
Học sinh trường cấp 2 Hữu Loan (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) tập đan mũ rơm. Những sợi rơm bện chặt lại có thể hạn chế được sự sát thương của bom đạn, nhất là bom bi.
Học sinh trường cấp 1 Minh Phương (Việt Trì) đội mũ rơm cho nhau. Chiếc mũ đi vào bài thơ Chào xuân 67 của nhà thơ Tố Hữu: Chào các em, những đồng chí của tương lai/ Mang mũ rơm đi học đường dài/ Chuyện thần kỳ dân tộc ta là vậy…
Hành trang đến trường của tuổi thơ thời chiến ngoài sách vở còn có mũ rơm, cáng cứu thương, xẻng, cuốc để đào hầm.
Học cách sơ cứu vết thương sau giờ học.
Chiếc mũ rơm cũng không rời khi học sinh tự làm bánh mì.
Học sinh đào hầm cá nhân ở khắp nơi để có thể trú ẩn bất cứ lúc nào có báo động.
Hai nữ sinh ôn bài bên hầm trú ẩn. Độc giả Nguyễn Thanh Minh chia sẻ: “Không thể quên những tháng năm tuổi thơ đã trải qua, hồn nhiên đến trường với mũ rơm trên đầu, mặc cho tiếng rít của máy bay phản lực, tiếng bom rền, tiếng súng cao xạ của bộ đội ta, từng tràng đạn đỏ lừ nối đuôi nhau phóng lên trời tạo thành một lưới lửa vây máy bay Mỹ, tiếng vo vo của mảnh đạn phòng không rơi xuống như tiếng bay của đàn ong. Rồi hò reo, chạy theo các chú bộ đội đi bắt phi công Mỹ bị bắn rơi nhảy dù dù bị người lớn cấm. Rồi trải qua những năm tháng gian khổ chống quân Trung Quốc xâm lược biên giới. Để rồi sau này vẫn ngẩng cao đầu vào đại học. Chúng tôi tự hào là thế hệ 6X”.
Sau này, mũ rơm còn là quà của GS Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo tặng cho thầy trò trường THCS Nam Từ Liêm trong lễ khai giảng năm học mới.
Tem phiếu, cửa hàng mậu dịch… chỉ còn trong ký ức của những người sinh từ những năm 70 về trước.
Thời gian có thể tạo nên những công trình, những kỳ tích nhưng cũng chính thời gian vô tình xóa đi nhiều thành tựu quá khứ. Tuy nhiên, chỉ duy nhất có hồi ức là vẫn sống mãi cùng với cuộc đời của những ai được một lần chứng kiến.
Thời kỳ bao cấp, nhất là thập kỷ 1980 thuộc giai đoạn điển hình trong lịch sử Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như nghệ thuật của đất nước.
Thời kỳ bao cấp (1976 – 1986) là một giai đoạn để lại nhiều ấn tượng khó quên trong cuộc sống người dân Việt Nam. Tuy nhiên, với thế hệ trẻ, để hình dung trọn vẹn được sự vất vả của mỗi gia đình trong giai đoạn lịch sử này không phải là điều dễ dàng. Có lẽ nó chỉ còn trong ký ức của những người Việt sinh từ những năm 70 về trước.
Cùng ngược dòng thời gian với những hình ảnh quý về miền Bắc thời bao cấp:
Tem phiếu mua thịt.
Những cửa hàng mậu dịch quen thuộc tại thời bao cấp.
Những gói mứt tết quen thuộc trong ký ức của nhiều người.
Phiếu mua lương thực.
Cảnh sát giao thông trên xe cup đỏ – phương tiện giao thông “hạng sang” thời đó.
Phiếu mua lương thực.
Bách hóa tổng hợp được coi là trung tâm mua sắm lớn nhất thời bấy giờ.
Rạp chiếu phim.
Xe đạp là phương tiện giao thông thông dụng thời đó.
Nụ hôn Việt trên tạp chí Life.
Bia hơi được bán qua khung sắt để tránh lộn xộn.
Phòng khách cơ bản thời bao cấp.
Cân lúa nộp cho hợp tác xã.
Cầu Long Biên.
Quán bia hơi.
Giải trí chính của trẻ em thời đấy là những hàng cho thuê truyện.
Quán ăn vỉa hè.
Xem thêm loạt ảnh Việt Nam 1992 : https://hinhanhvietnam.com/anh-cuc-chat-ve-cuoc-song-o-ha-noi-nam-1992/
Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt tay, khuôn mặt ốm nhăn nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông thủng thỉnh trả lời theo kiến giải của mình.
Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện.
Nghe vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam” :
“…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ. Tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách…”.
BẾN XE ĐÒ LỚN TRÊN ĐƯỜNG TRƯƠNG VĨNH KÝ (PETRUS KÝ) NĂM 1950, GẦN NGÃ SÁU SÀI GÒN CÓ TƯỢNG PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG ( ẢNH DONALD F. HARRISON COLLECTION – THE VIETNAM CENTERAND ARCHIVE)
Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ.
Giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.
Ông Sơn Nam kể : “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.
Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ. Tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe. Thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập niên 50.
XE ĐÒ RENAULT CHẠY TUYẾN TỪ HUẾ QUA AN LỖ RỒI ĐẾN SỊA –TRUNG TÂM HUYỆN QUẢNG ĐIỀN NGÀY NAY. HINH CHỤP 1964. NGUỒN LONNIE M. LONG COLLECTION – VIETNAM CENTER
Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu. Có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than. Hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực. Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe.
Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước.
Trên mui phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.
Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào. Riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.
Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường. Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.
XE ĐÒ FORD TẠI BẾN XE NGUYỄN CƯ TRINH 1965
Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình. Sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát.
Ðường về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận. Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi.
Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt. Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.
Trước năm 1975, Xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân.
Còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay.
Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q. 9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, 9 Xe do 6Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.
Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm. Có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi. Cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa. Và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ.
Đường đi lối lại và người đi trên đường là một đối tượng nghiên cứu thú vị của khoa Nhân học. Xã hội phong kiến phương Đông hay xã hội thời Trung cổ phương Tây có nhiều nét đặc biệt về giao thông, mà đã lâu người ta không quan niệm được nữa.
1. Đa phần cho rằng giao thông thời phong kiến và Trung cổ rất kém, chất lượng đường không tốt bao gồm cả xe cộ và con đường, tất nhiên cũng do nhu cầu đi lại của người ta lúc đó tưởng như không lớn. Đa phần nông dân chỉ loanh quanh trong làng của mình, trong lãnh địa của mình, xa lắm là đi sang làng bên. Lúc đó đi và về trong một ngày được coi là đi gần, đi và về qua đêm được coi là đi xa. Tốc độ trung bình của người đi bộ từ 4 – 10km/giờ, ngựa có thể đạt tốc độ từ 20 – 30km/giờ, theo cách tính của người phương Tây, trên thực tế ở Việt Nam tốc độ này thấp hơn nhiều.
Ngựa trạm và lính truyền tin. Ảnh chụp đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet
Ở Việt Nam, người đi bộ tối đa từ 4 – 5km/giờ, đi ngựa đạt từ 15 – 20km/ giờ và thực ra con ngựa Việt bé nhỏ, người ta cưỡi để khỏi tự đi bộ, chứ không phi mà cũng đi thủng thẳng như người chân đất, vả lại còn có một vài tay hầu nhỏ cắp tráp đi sau (người cưỡi ngựa thường là quan lại hay nhà giàu). Nếu phải gánh gồng, người ta cũng không đi chậm hơn người đi tay không bao nhiêu, vì hàng nặng luôn có quán tính lao đi, cũng không thể chậm chạp quá được.
2. Để đi hết một tỉnh hay chiều dài đất nước, có lẽ người ta mất cả năm trời. Đối với đất nước tương đối vuông vắn như nước Pháp, người ta đi từ chiều nọ sang chiều kia, mất từ 20 ngày đến vài tháng, thành thử vào thời cổ, đất nước nào cũng rộng hơn bay giờ nhiều, và cũng bí hiểm hơn vì có bao nhiêu thứ ở các vùng khác nhau người ta chưa từng biết đến. Cái cảm giác về đất nước ở các thời đại hoàn toàn khác nhau, ví như ngày nay người Việt thấy đất nước mình là nhỏ, cũng vì tốc độ mà con người hiện đại đạt được là rất lớn. Đi máy bay từ Hà Nội đi Sài Gòn, mất có gần hai giờ, so với người ở thế kỷ 19, đi bộ vào Nam có lẽ mất sáu tháng. Thế kỷ 11, người ta cảm giác về Đại Việt khác thế kỷ 15, khi mà vua Lê Thánh Tông đã dẫn quân vào tận Phan Rang. Thế kỷ 16 trở đi người ta đã có cảm giác về một đất nước như bây giờ và nhìn ra biển người ta thấy cả Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, cũng một phần do quản lý thông tin lúc đó chỉ bằng ngựa chạy trạm, từ Huế đi ra Bắc và vào Nam có khoảng cách tương tự, nhưng ra vào cũng mất một tháng trời, thông tin mới tới nơi.
Trước thế kỷ 17, mỗi lần đi sứ Trung Quốc, chuyến đi kéo dài tới ba năm và người ta coi sứ giả như người đã chết, bị đi sứ có nghĩa là đang bị giáng cấp, hoặc mang trọng trách rất quan trọng nào đó.
3. Ở phương Tây Trung cổ, những con đường hình thành ngay từ thời Tiền sử để lại, đó là những lối mòn vắt qua nhiều nước châu Âu, qua núi non. Người La Mã chiếm gần hết phía Nam Địa Trung Hải và Bắc Phi, một đế quốc bao la ngay trước Công nguyên, đã cho xây dựng những con đường trên đế quốc của mình, những con đường đó lát đá, đủ cho hai cỗ xe ngựa chạy song song, và luôn thẳng tiến, bất kể trước mặt là núi hay sông. Với một đế quốc rộng lớn như vậy, đường thẳng là đường ngắn nhất.
Đến thời Trung cổ những con đường đó vẫn còn được sử dụng và nó bị phân cắt khi đi qua các lãnh địa thuộc về sở hữu riêng của các lãnh chúa địa phương. Những lãnh chúa này có trách nhiệm đảm bảo an ninh trong đất đai của mình, nếu người đi đường bị ăn cướp, thì lãnh chúa phải bồi thường.
Ảnh bên: Thuyền buồm, phương tiện di chuyển của người Việt trên sông và biển (Ảnh: Jean Haeflinger, khoảng 1855. Nguồn: Internet)
4. Những con đường ở Việt Nam được hình thành như thế nào là một vấn đề lịch sử, có lẽ con đường quốc lộ một là một huyết mạch hình thành sớm, và có nhiều ý kiến cho rằng, thời đầu Công nguyên, khi đồng bằng còn chưa được bồi đắp đầy đủ, đó là con đường chạy sát biển. Cố đô Hoa Lư không phải là một nơi phòng thủ thuần túy như người ta nghĩ mà nó cũng nằm ngay sát biển, nơi đổ ra bể của sông Hoàng Long. Chúng ta nên nhớ huyện Kim Sơn về căn bản mới được khai thác và bồi đắp từ thời Nguyễn Công Trứ, đầu thế kỷ 19. Họa sỹ Phan Bảo cho rằng, người xưa lấy đê làm đường đi, nên từ Đê chính là nguồn của từ Đường. Trong tiếng Nùng, Lồ là đường đi tương đương với chữ Lộ trong tiếng Hán, trong tiếng Tày, Tàng là đường đi. Vậy người Việt và người Tày có chung gần nhau từ đường đi là Đường hay Tàng, người ta còn gọi là Đàng(Đi một ngày đàng học một sàng khôn – tục ngữ ).
Con đường xuyên Nam Bắc cuối cùng được nhà Nguyễn chỉnh đốn thành con đường Thiên lý (đường ngàn dặm), cứ vài cây số, hay mươi cây số tùy từng nơi, lại đặt một quán trạm, cho lính đưa tin nghỉ ngơi, thay ngựa, người đi đường nghỉ chân, trên thực tế các quán trạm hình thành tự nhiên do tầm đi lại, và các thị trấn ven đường mọc ra. Chúng ta thấy rằng tầm 5- 7km có vẻ hợp lý, vì nhiều ga, bến, chợ đã hình thành ven đường đi như vậy.
Tuy nhiên đi từ Bắc xuống Nam, người ta gặp rất nhiều con sông cắt ngang, những con sông này vốn chạy theo hướng tây – đông, giao thông đường bộ rất khó khăn, các bến đò ngang hình thành, cầu chỉ được bắc qua sông nhỏ, nhưng những con sông hướng tây bắc – đông nam lại khá lớn. Sông Kỳ Cùng, sông Thương, sông Cầu, sông Hồng, sông Châu Giang, sông Mã, sông Gianh, sông Hương… và ở đồng bằng Nam bộ là chín nhánh của sông Mê Kông, nên gọi là sông Cửu Long.
Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long ông đã đi bằng thuyền, từ sông Hoàng Long, lên sông Đáy, từ sông Đáy vào sông Hồng, rồi từ sông Hồng vào sông Kim Ngưu. Đây chỉ là ước đoán, có thể hành trình lúc đó còn phức tạp hơn.
5. Đường đi thì thời nào cũng có, nhưng chất lượng đường thời xưa phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế tự nhiên, chủ yếu là đắp đất, và một số ít được lát gạch và đá. Có đường quốc lộ chung cho cả nước, mà cụ thể là con đường Thiên lý.
Tuyến đường Thiên lý ngày nay được xác định chính là con đường số 1 từ Lạng Sơn xuống. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng vào thời Bắc thuộc, giai đoạn đầu Công nguyên đến thế kỷ 7, con đường xuyên từ Quảng Ninh, vắt qua Phả Lại vào Luy Lâu, Thuận Thành (Bắc Ninh), rồi sang Hà Nội mới là huyết mạch chính. Lúc đó Luy Lâu là thủ phủ của chính quyền đô hộ, đây cũng là trung tâm tín ngưỡng Tứ pháp cổ xưa và Phật giáo sớm ở Đại Việt. Đương nhiên khi kinh đô hay thủ phủ ở đâu, những con đường tới đó và từ đó đi ra là quan trọng.
Con đường đất từ Hải Phòng ra Đồ Sơn. Bưu ảnh Đông Dương đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet
Như vậy chúng ta cần xác định các con đường ra vào các trung tâm cổ như: Việt Trì, Mê Linh, Cổ Loa, Luy Lâu, Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đô, Huế, Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Phan Rang, Gia Định – đây đều là những trung tâm đô hội của các triều đại cổ xưa trong lịch sử.
Khi nghiên cứu trung tâm Luy Lâu, chúng tôi thấy đường giao thông cho đến thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, vẫn phụ thuộc rất nhiều vào con sông Dâu. Các hoàng thân quốc thích hoàng tộc Lê Trịnh đến chùa Bút Tháp, thường đi thuyền sông Dâu từ cung Cổ Bi, đến tận cửa chùa (con đường trước mặt chùa mời hình thành những năm giữa thế kỷ 20 và rất nhỏ). Con sông này có thể đưa người ta đi từ sông Cầu, qua sông Tiêu Tương xuống, đi lại từ Hà Nội qua Luy Lâu và xuống Hưng Yên vào sông Châu Giang, đồng thời có thể ngược lên sông Phả Lại. Để vào Luy Lâu, nếu đi đường bộ, người ta phải qua rất nhiều bến đò.
6. Đường quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện và liên xã, cuối cùng là đường làng. Hầu hết các con đường này đều chỉ là đường đất, trong đó các tuyến đê chạy theo hai bên bờ sông cũng rất quan trọng cho người ta đi về từng vùng miền.
Xe đẩy bánh gỗ. Bưu ảnh Đông Dương đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet
Một nghịch lý là trong khi Thăng Long đến thế kỷ 19 vẫn còn nhiều con phố trong phường thợ là đường đất, thì rất nhiều đường làng đã được lát gạch. Số là các làng có một quy ước, nếu đôi trai gái nào cưới xin, thì phải lát cho làng vài thước đường đi, quy định này nhiều hay ít phụ thuộc vào kinh tế của từng làng, tối thiểu là 1 thước và có thể tối đa lên đến 5, 10 thước. Các đường làng đều nhỏ hẹp, chỉ từ 80 phân đến 1 thước, nhưng gạch lát theo chiều nghiêng, nên rất vững chắc. Có vài làng, như làng Phù Lưu được những viên quan người địa phương cho lát đá đường làng với hệ thống cống rãnh rất hoàn chỉnh.
Đường lát gạch và đá của quốc gia chỉ có từng đoạn ngắn ở kinh kỳ gần cung cấm và các vương phủ, quan phủ, đền chùa miếu mạo. Đường liên xã, huyện, tỉnh hình thành tự nhiên theo các địa lý hành chính và cũng được củng cố thường xuyên. Thời phong kiến tất cả những con đường này đều đắp bằng đất, người ta thường đào hai bên đường, hoặc một bên đường, đắp một con đường cao lên, chỗ đất bị đào xuống nhân thể làm thành những con mương dẫn nước. Do là đường đất, vào mùa mưa rất trơn và nhiều bùn lầy, mùa nắng đám bùn đó biến thành bụi, ở những xứ đất đỏ đôi khi cây cối ven đường bị nhuốm màu, nhất là vào thời có những phương tiện giao thông cơ giới.
Để làm cho vững chắc con đường, người ta có thể rải ít đá dăm và sỏi, rồi đầm vào mặt đường, tuy nhiên đó thường là yêu cầu của chiến tranh, chứ bình nhật người ta không mấy quan tâm đến độ bền của đường đất. Nhưng đê điều – tuyến giao thông và chống lũ lụt quan trọng, thường được quan tâm kỹ. Có cả quan phụ trách riêng, luôn huy động dân công đắp đê bằng công quỹ từ triều đình và đóng góp của địa phương.
Xe kéo tay. Bưu ảnh Đông Dương đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet
7. Thuyền là phương tiện chuyên chở chính, nhất là những hàng nặng. Những năm 1398, khi Hồ Quý Ly chuẩn bị cho xây thành Tây Đô và Ly Cung ở Thanh Hóa, do thời gian gấp, ông cho tháo nhiều cung điện ở Thăng Long chở bằng thuyền vào xứ Thanh. Đến cuối thế kỷ 19, khi cha Sáu cho xây nhà thờ đá Phát Diệm ông cũng vận chuyển đá từ Thanh Hóa ra bằng thuyền.
Xe ngựa thì hầu như không chở được vật liệu nặng và cũng không được dùng phổ biến, nhất là trong những địa hình đồi núi. Xe trâu đắc lực hơn và trâu có thể kéo xe lên xuống dốc tốt. Xe một bánh đặc bằng một khoang gỗ tròn cũng là một phương tiện vận chuyển cá nhân, còn lại người Việt đem đôi vai ra gánh vác một cách thường xuyên và hàng ngày. Thương nghiệp không được chú trọng thời phong kiến, một mặt do sản xuất hàng hóa hầu hết mang tính chất tự cung tự cấp, nhưng mặt khác do giao thông và phương tiện giao thông rất hạn chế của thương nhân Việt thời phong kiến.
Giao thông Hà Nội ngày xưa với khung cảnh đường phố vắng vẻ, tiếng tàu điện leng keng, đường phố hiếm khi nào bị tắc nghẽn hoặc ô nhiễm khói xe, tiếng ồn thì nay những hình ảnh đó chỉ còn lại trong ký ức của của những người cao tuổi, bậc trung niên.
Phương tiện giao thông trên phố Tràng Tiền xưa thưa thớt người qua lại (ảnh tư liệu) và nay là cảnh tắc đường ở khắp mọi nơi.
Một thời xe kéo tay trên phố (ảnh tư liệu). Ngày nay xe kéo tay hầu như đã “tuyệt chủng” thay vào đó là các phương tiện khác như xe ôm, taxi.
Những chiếc xích lô ngày xưa, một hình ảnh vốn đã thân thuộc và gắn bó với nhiều thế hệ, đây là một nét đẹp văn hóa của Việt Nam (ảnh tư liệu). Ngày nay xe xích lô hầu như chỉ dành riêng để phục vụ khách du lịch nước ngoài có nhu cầu tham quan phố cổ.
Mấy chục năm trước, chiếc xe đạp trị giá cả cây vàng, được cấp giấy chứng nhận sở hữu, có biển số và được giữ gìn như vật báu trong nhà (ảnh tư liệu). Hiện nay cả nước có hơn 46,5 triệu xe máy, tính trung bình cứ 2 người dân Việt Nam thì có 1 chiếc xe máy.
Tàu điện ngầm leng keng, một nét văn hóa rất riêng thời bao cấp (ảnh tư liệu). Ngày nay, hình ảnh tàu điện ngầm chỉ còn lại trong ký ức, thay vào đó là hàng trăm tuyến xe buýt len lỏi mọi ngõ ngách ở Thủ đô.
Giao thông tại khu phố cổ Hà Nội xưa (ảnh tư liệu). Và nay, chỉ có duy nhất sáng mùng 1 Tết mới có lại khung cảnh đường phố Hà Nội vắng vẻ và bình yên đến vậy.
Ngày xưa người dân chủ yếu sử dụng xe thồ, xe cải tiến làm phương tiện vận chuyển hàng hóa với con người làm sức kéo (ảnh tư liệu). Ngày nay, xe kéo tay hầu như đã không còn được sử dụng thay vào đó là xe ba gác, xe máy chở hàng cồng kềnh trên phố.
CSGT điều tiết giao thông trên phố ngày xưa (ảnh tư liệu) và ngày nay.
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng khu vực Hà Nội, nối hai quận Hoàn Kiếm và Long Biên, do Pháp xây dựng năm 1898-1902. Những năm 80 và trước đó, cầu chủ yếu phục vụ xe đạp, người đi bộ (ảnh tư liệu). Ngày nay, Hà Nội có tới 7 cây cầu bắc qua sông Hồng. Gồm: cầu Long Biên, Chương Dương, Thăng Long, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Vĩnh Thịnh và cầu Nhật Tân mới được xây dựng và đưa vào sử dụng 2 năm nay.
Những mảnh ký ức về một Hà Nội xưa cũ và thân phận những con người ở nơi đây từ khoảng một thế kỷ trước được tái hiện trung thực, sâu sắc trong bộ sưu tập ảnh cổ những năm 1870-1954 của KTS Đoàn Bắc.
Lịch sử đã đi qua thì không bao giờ trở lại nên cần đặc biệt gìn giữ, trân trọng và lưu truyền lại cho các thế hệ tương lai.
Bộ ảnh “Ký ức Hà Nội xưa 1870- 1954” do KTS Đoàn Bắc và cha mình (nhà giáo lịch sử Đoàn Thịnh) sưu tầm, biên soạn và phục chế trong nhiều năm. Vào dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội (tháng 10 năm 2010), 1.820 bức ảnh của bộ sưu tập này đã được chọn lọc và công bố lần đầu tiên với công chúng tại Thủ đô Hà Nội.
Sau đó bộ ảnh này đã được triển lãm lưu động tại một số trường học, làng quê cổ ở Hà Nội. Đặc biệt trong tháng 5 năm 2012, bộ ảnh cổ về Hà Nội này cùng các vùng miền khác của Việt Nam đã được in lại để trưng bày và tặng lại cho đồng bào, chiến sĩ ở huyện đảo Trường Sa.
Bộ ảnh “Ký ức Hà Nội xưa 1870- 1954” của KTS Đoàn Bắc hiện nay có tổng cộng khoảng hơn 4.000 bức ảnh đã được chuyển sang định dạng kỹ thuật số. Trong bộ ảnh có rất nhiều chủ đề đan xen lẫn nhau và được chia thành các phần tiêu biểu như Thăng Long – Hà Nội (về cảnh vật, cuộc sống ở các khu và làng quê phố cổ), Hà Nội thời Pháp thuộc (về những dấu ấn của Châu Âu tại Hà Nội trong cảnh vật, cuộc sống) và đặc biệt là phần về Chân dung người Hà Nội (với đủ mọi thành phần, tầng lớp tiêu biểu trong xã hội ở Hà Nội thời kỳ đó).
Đây là thành quả có được từ tâm huyết và công sức của những người con Hà Nội gốc và sự giúp đỡ của những người yêu Hà Nội ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Bộ ảnh “Phương tiện giao thông ở Hà Nội xưa” thuộc phần “Hà Nội thời Pháp thuộc” trong bộ ảnh. Đa phần các phương tiện giao thông này được du nhập và được chụp lại trong thời kỳ Pháp thuộc.
Bên cạnh hình ảnh về các phương tiện giao thông còn có thân phận những con người, sự kiện lịch sử gắn với chúng và gắn với ký ức của nhiều thế hệ đã từng sống ở Hà Nội. Từ những con thuyền buồm cổ đến những chiếc tàu hơi nước điển hình của một thành phố thương mại bên sông. Từ những chiếc ô tô vốn chạy bằng xăng, dầu vừa được du nhập vào Việt Nam cho tới khi chúng được người Hà Nội chuyển sang chạy bằng than cám khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu (đầu thế kỷ XX). Từ những chiếc xe kéo tay đã không còn tồn tại cho tới những chiếc xe xích lô vẫn gắn với đời sống lam lũ của người Hà Nội đến tận ngày nay.
Tiếng tàu điện leng keng là đặc trưng của đô thị Hà Nội thời Pháp thuộc vẫn là một kỷ niệm với nhiều người dân cho đến tận những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Hoài niệm lại ký ức để hiểu, trân trọng lịch sử và càng thêm yêu thành phố Hà Nội, dù bạn đến từ bất kỳ đâu. Đó là một trong những thông điệp chính của bộ sưu tập ảnh “Ký ức Hà Nội xưa 1870- 1954”.
Trẻ em Việt đã từng có một văn hóa giao thông như thế…
Ít ai biết rằng, văn hóa sang đường như người Nhật, trẻ con Việt Nam cũng đã từng thực hiện chỉ mới hơn 60 năm về trước:
Lính Pháp và người dân Hà Nội đứng chờ những học sinh Hà Nội trong trang phục truyền thống đang khoanh tay xin đi qua đường. (Ảnh: Robert Capa)Lính Pháp và người dân Hà Nội đứng chờ những học sinh Hà Nội trong trang phục truyền thống đang khoanh tay xin đi qua đường. (Ảnh: Robert Capa)
Trên đường phố Hà Nội, những em học sinh mặc trang phục truyền thống khoanh tay cảm ơn mọi người trong khi đi qua đường. Đây là những bức ảnh cuối cùng trong sự nghiệp của nhiếp ảnh gia Robert Capa, vài ngày trước khi ông mất vì bẫy mìn chiến tranh…
Đi đường cúi đầu chào, trẻ con biết lễ độ, người Việt Nam đã từng rất trọng “Lễ” – Nhìn vào những bức ảnh này, người ta cứ tưởng như đang chứng kiến người Nhật hiện đại (Ảnh: Tonkin)
Khi nghĩ về ngày xưa, đôi khi người Việt thường có quan niệm rằng: Thời đó phong kiến lắm, thời đó lạc hậu lắm. Thế nhưng người Việt của mấy chục năm về trước thôi đã văn minh hơn hẳn bây giờ. Hãy cứ thử nhìn lại cách sang đường “liều chết” của người Việt hiện đại mà xem:
(Ảnh: Xebmw.net)(Ảnh: GTVT)
Ở Việt Nam, người lớn hay trẻ nhỏ đều sang đường một cách rất nguy hiểm! Có vạch kẻ đường cho người đi bộ không sang, có cần cầu đường bộ trên cao không dùng, người đi bộ sang đường bất cứ nơi đâu họ muốn, bất chấp khu vực cấm hay trèo rào phân cách.
Người Việt hiện đại tham gia giao thông với phương châm: Tiện là chen, thích là lấn, không có cảnh sát là vượt, vội là leo lên vỉa hè, mà không vội thì cũng leo lên vỉa hè…
(Ảnh: Baodatviet.vn)(Ảnh: Bestie.vn)
Thậm chí gần đây có cư dân mạng còn so sánh hình ảnh giao thông của Việt Nam với sự giao thông của… đàn trâu!
Một cư dân mạng đã so sánh ý thức giao thông của người Việt còn kém cả đàn trâu (Ảnh: Facebook)
Tại sao văn hóa giao thông của Việt Nam ngày nay lại càng ngày xuống thấp như vậy? Xin mời các độc giả cùng bàn luận!
Hàng chục năm sau cuộc chiến, nhiều thế hệ người Mỹ vẫn đặt câu hỏi “chúng ta đã làm gì ở Việt Nam? Để đạt được cái gì?”. Điều đó được thể hiện rất rõ trên những chiếc bật lửa Zippo – vật bất ly thân của lính Mỹ tại Việt Nam.
Một hình ảnh khá ám ảnh…
Những chiếc bật lửa Zippo nhỏ bé là một trong những vật dụng phổ biến, trở thành một thứ văn hóa tiêu biểu cho nước Mỹ. Trong chiến tranh Việt Nam, chúng là thứ vật dụng cá nhân tiêu chuẩn của mọi lính Mỹ.
“Tôi đi qua thung lũng đầy bóng tối của cái chết. Tôi không sợ quỷ dữ bởi tôi chính là thứ ác quỷ khốn nạn nhất trong cái thung lũng này”.
Chán chường với những ngày tháng chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc chiến vô nghĩa, nhiều lính Mỹ đã dồn tâm trạng của mình lên chiếc bật lửa zippo, bằng những nét khắc đa dạng, từ mộc mạc đến phức tạp. Sau cuộc chiến, chúng trở thành một dòng bật lửa riêng, được người sưu tầm trên toàn Thế giới săn lùng.
Hình khắc trên bật lửa Zippo của lính Mỹ tại Việt Nam rất đa dạng, có thể chỉ đơn giản là những hình ảnh kỷ niệm rất đẹp như thế này…
…hay với bản đồ chi tiết của dải đất hình chữ S, với đầy đủ địa danh hành chính…
…Đầy đủ các chiến trường từng đóng quân, chiến đấu, với lời nhắn gửi “Chiến tranh là địa ngục”
Cuộc chiến Việt Nam gây chia rẽ sâu sắc trong nội bộ nước Mỹ. Bức tranh về cuộc chiến với người lính Mỹ khi sang tới Việt Nam khác rất nhiều so với những gì họ được tuyên truyền trước khi lên đường. Như thông điệp của người lính này: “Đừng nói với tôi về Việt Nam bởi tôi đã đến đó”
Mệt mỏi, chán chường có lẽ là thứ tâm trạng phổ biến nhất của lính Mỹ tại Việt Nam: “Nếu có một đồng ruộng ở Việt Nam và một ngôi nhà ở địa ngục, tôi sẽ bán cánh đồng và về địa ngục sống”
Chiến trường Việt Nam khác xa những gì lính Mỹ tưởng tượng. Phần đông trong số họ nhận thức được rõ mình đã phí hoài những năm tháng tuổi trẻ mà chẳng vì cái gì cả: “lúc nào cũng cơ bắp hoặc lúc nào cũng ‘phê’, tôi đã đi được một năm rồi, tôi sắp về nhà”
“Ngày là chiến binh, đêm là người tình, say xỉn do chọn lựa, đi lính thủy quân lục chiến là một sai lầm”
“Chiến tranh là địa ngục, nhưng thực chiến mới là khủng khiếp”
“Chúng ta là những kẻ không ý chí, được huấn luyện bởi những kẻ không trình độ, làm những việc không tưởng cho những kẻ vô ơn”
“Trong đời, chúng ta thường xuyên phải làm điều mà mình không thích”
“Sống vui lên! Đằng nào mà chúng ta chả xuống địa ngục với nhau hết”, một người lính đóng quân tại Cam Ranh tự động viên mình
“Điều duy nhất tôi thu lại được sau khi giết một con người là cảm giác súng giật”
Người lính này chọn hòa bình nhưng sau cùng lại tới Việt Nam tham chiến, để rồi tự đặt cho mình câu hỏi: “sao lại là tôi?”
“Tôi yêu cái quân đội này nhưng họ thì lại thích ‘chơi khăm’ tôi”
Một chiếc Zippo với thông điệp man rợ: “tao đã giết 35 thằng”
“Không có gì ngọt ngào hơn mùi na-pam cháy”
“Khi mà sức mạnh của tình người lớn hơn tình yêu với quyền lực, thế giới sẽ biết đến hòa bình”
Tình trạng phân biệt chủng tộc tồn tại cả trong hàng ngũ quân đội Mỹ. Đây có lẽ là những dòng nhắn nhủ của một người lính da màu: “hãy tự hào về màu da của mình vì chúng ta là người chiến thắng”
Bên cạnh sự chán nản là những nỗi nhớ rất “người”, như mọi người lính xa nhà: “Gửi tới mẹ, từ anh lính dù cô đơn Tony”
“Trong lòng tôi chỉ có một người con gái, tên cô ấy là Beverly Dennington, tôi yêu cô ấy rất nhiều”
Có nhiều lính Mỹ được huấn luyện bởi những anh hùng từ thời Thế chiến II, coi việc tham gia cuộc chiến là nghĩa vụ và đặc quyền. Nhưng có nhiều lính Mỹ trở thành nạn nhân của số phận, không muốn ra chiến trường nhưng vì hoàn cảnh, như nhà nghèo không có tiền học tiếp mà phải nhập ngũ, tỏ ra bực bội với chính phủ và chỉ huy của mình.
Nhiều người trong số họ không hề hứng thú với vinh quang hay chính trị, mà đơn giản chỉ cố gắng tuân lệnh và làm sao nhanh chóng có tấm vé về nhà. Những suy nghĩ đó được thể hiện trên chiếc bật lửa Zippo, vật dụng thiết yếu mà hầu như lính Mỹ nào thời đó cũng mang theo để hút thuốc, nấu nướng, soi sáng những lá thư nhận được từ người thân hay đốt lửa sưởi ấm… Bật lửa Zippo được dùng trong chiến dịch Tìm diệt nhiều đến nỗi chiến dịch này còn có biệt danh là “Cuộc tấn công Zippo”.
Bộ sưu tập của nghệ sĩ người Mỹ Bradford Edwards từ nhiều năm trước bán được hơn 35.000 USD.
Dưới đây là một số chiếc bật lửa Zippo nằm trong bộ sưu tập được mang ra đấu giá:
Hiện nay, do số người hút thuốc giảm dần nên mỗi năm số lượng Zippo được sản xuất lại ít đi. Mặc dù vậy giá thành của chúng vẫn rất đắt đỏ.
Sau chiến tranh Việt Nam, bởi chứa đựng những ý nghĩa vô giá mà ngày nay những chiếc Zippo thời chiến trở thành một dòng riêng biệt đối với những người sưu tập Zippo. Những chiếc Zippo đời đầu và những chiếc được chạm khắc bởi lính Mỹ sử dụng trong chiến tranh vẫn luôn được các nhà sưu tập lùng sục.
Tuy nhiên, có người khẳng định rằng những chiếc Zippo ấy đã không còn nữa, tất cả những chiếc đang được rao bán đều là hàng giả. Những người sành về Zippo nói rằng họ có thể phân biệt dễ dàng giữa một chiếc Zippo giả và một chiếc Zippo thật chỉ bằng tiếng “tách” khi mở, đóng nắp, hoặc nhờ kiểu chữ khắc trên đó, chữ được khắc trên một chiếc Zippo giả thua xa một chiếc thật. Thế nhưng không thể phủ nhận được rằng những chiếc Zippo giả ấy thật khó có thể phát hiện, chúng đã lừa được cả những nhà sưu tập trên thế giới!
Nói đến báo chí Sài Gòn trước năm 1975, không thể bỏ qua tiểu thuyết kiếm hiệp, còn gọi truyện chưởng. Thể loại này từng làm mưa làm gió trên mặt báo suốt một thời gian dài.
Truyện chưởng Cây đèn vô tình của Kiêm Hồng, bản dịch Hải Âu Tử in trên nhật báo từ tháng 1.1964.
“Chưởng” Ta thắng “chưởng” Tàu
Khoảng năm 1959 – 1960, lần đầu tiên tờ Dân Nguyện của ông Hà Thành Thọ đăng nhiều kỳ tiểu thuyết Lam y nữ hiệp, do một độc giả tình cờ đọc được, thấy hay nên dịch gửi đăng báo. Loại truyện kiếm hiệp này giới xuất bản ở Hồng Kông gọi là “võ hiệp tân trào” nhằm phân biệt với loại “cựu trào” đã xuất bản trước thời Thế chiến thứ 2.
Loại “cựu trào” từng được dịch và in thành sách từ thời tiền chiến, có thể kể đến Giang hồ kỳ hiệp, Hỏa thiêu Hồng Liên tự… Mỗi tập sách chưởng chỉ 16 trang, giá bán 3 xu/tập, phát hành hằng tuần. Cụm từ “Tiểu thuyết ba xu” có lẽ ra đời trong thập niên 1930 là nhằm chỉ loại sách viết nhanh, viết vội, đọc giải trí, đọc xong rồi bỏ, do đó, tác giả bịa ra bút danh nào đó vì không dám chường mặt ra. Thế nhưng, khi nhà văn Phạm Cao Củng xuất hiện (ký bút danh Văn Tuyền) với bộ Lục kiếm đồng, lập tức đánh bạt các bộ kiếm hiệp khác.
Ông Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh là ký giả chuyên viết bình luận thời sự cho các báo Dân Chủ Mới, Thần Chung, Trắng Đen, Sống Mới… lý giải: “Thật ra, kỹ thuật… phi kiếm của Văn Tuyền có lẽ không hơn gì kỹ thuật nội công của truyện chưởng Hồng Kông nhưng bộ Lục kiếm đồng được ưa chuộng là vì anh Văn Tuyền biết đưa sắc màu “diễm tình” vào tiểu thuyết. Bộ Lục kiếm đồng hay hơn ở điểm chẳng những có phi đao phi kiếm mà còn có những chuyện yêu nhau theo trào lưu mới”.
Bạn đọc thích truyện chưởng VN ngoài yếu tố diễm tình còn gì nữa? Trong Tự truyện (NXB Văn Học – 1985), nhà văn Tô Hoài cho biết ông rất mê đọc truyện “chưởng VN như Càn Long du Giang Nam, Người đẹp mài gươm, Gươm cứu khổ… và không nhớ từng viết truyện chưởng lấy tựa là Tráng sĩ Rừng Thông hay Sơn Lâm hiệp khách, nhưng ông tuân theo “phong cách” chung: “Các tay kiếm khách giang hồ của tôi không có phép thuật hoang đường. Truyện của tôi chỉ có quán rượu, có đánh chén, có trọng nghĩa khinh tài, các kiếm khách nhảy từ gác tửu lâu xuống đánh nhau, rồi nhận nhau, rồi kết nghĩa, hẹn nhau cùng đi trừ gian làm phúc cho đời”.
Nhờ lưu trữ một vài bộ sách kiếm hiệp thời ấy, tôi bổ sung thêm nhận xét nữa: nhà văn VN còn đánh trúng thị hiếu ở chỗ không chỉ độc giả mê câu văn du dương mà còn thích… thơ! Chẳng hạn, Chu Nhất Kiếm trong Độc nhỡn kiếm của Tân Hiến lúc thoáng nhìn tà áo giai nhân lướt qua, lập tức buột miệng: Bóng hồng nào có thấy đâu/Bốn bề bát ngát một màu bể khơi hoặc lúc tráng sĩ thể hiện chí làm trai: Trượng phu sao không lấp sông nhổ núi đuổi quân dị tộc ra khỏi miếu đường/Hà tất mê muội trong tình trường?/Hà tất đắm đuối vòng nhớ thương…”. Rõ ràng, truyện chưởng VN không chỉ để mua vui, thoát ly thực tế.
Bộ Lục mạch thần kiếm của Kim Dung, bản dịch Hàn Giang Nhạn sau khi đăng “phơ-ơ-tông” đã in thành sách (1973).
ẢNH: L.M.Q
Những người tiên phong dịch truyện chưởng
Khi tờ Dân Nguyện đăng từng kỳ Lam y nữ hiệp, thấy ăn khách, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó liền “chiêu mộ” ngay dịch giả cuốn Lam y nữ hiệp về với họ, bằng cách trả tiền nhuận bút cao hơn tờ Dân Nguyện. Rồi trên một tờ báo nọ bỗng xuất hiện tiểu thuyết võ hiệp Lã Mai nương – còn thành công hơn Lam y nữ hiệp, độc giả càng khoái hơn nữa.
Lập tức, loại truyện này bắt đầu rộ lên ở báo chí miền. Liền đó, hai dịch giả thuộc loại “cao thủ võ lâm” tạo được tên tuổi là Tiền Phong – thường gọi là “Sìn Phoóng”, một nhà văn có tuổi, là người Minh Hương, đọc chữ Tàu nhanh như chớp; và Tam Khôi, một dịch giả trẻ nhưng giỏi về Hán tự.
Thật ra, Tiền Phong là người đi trước nhất, vì từ trước ngày làng báo Sài Gòn bắt đầu có truyện chưởng, ông đã đọc nhiều tiểu thuyết võ hiệp ở Hồng Kông gửi sang, nhưng đọc giải trí, lúc vui kể lại cho vợ con và vài người bạn thân nghe. Thấy Lam y nữ hiệp và Lã Mai nương múa kiếm trên làng báo, ông Tiền Phong sẵn máu nghệ sĩ, liền dịch luôn hai, ba bộ tiểu thuyết Tàu mà mọi người đánh giá là hay nhất, trong đó có bộ Bích huyết kiếm của Kim Dung, cho in trên tờ Đồng Nai. Thấy Tiền Phong dịch Bích huyết kiếm, Tam Khôi liền chọn một bộ khá dài cũng của Kim Dung để dịch là Anh hùng Xạ Điêu, đăng trên tờ Dân Việt. Từ đó, tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung bắt đầu tràn ngập làng báo Sài Gòn.
Trong hồi ký Mười năm làm báo, nhà báo Vũ Mộng Long cho biết những chi tiết khá bi hài: “Có báo sắp chết nhờ Cô gái Đồ Long mà hồi sinh anh dũng. Khi Cô gái Đồ Long, bộ cuối cùng của trường thiên Ỷ thiên kiếm, Đồ Long đao chấm dứt (trường thiên này gồm ba bộ: Anh hùng Xạ Điêu – đăng ở Dân Việt; Thần điêu đại hiệp – đăng ở Báo Mới và Cô gái Đồ Long – đăng ở Đồng Nai) thì làng báo VN khai thác trường thiên tiểu thuyết Thiên long bát bộ cũng của Kim Dung. Nhưng tên truyện của Kim Dung được “đặt lại” cho mỗi báo. Báo thì A Tỷ Kiều Phong, báo thì Lục mạch thần kiếm, báo thì Cô Tô Mộ Dung”.
Ngày ông Trần Ngọc Huyến giữ chức Thứ trưởng Thông tin đặc trách báo chí, liền cấm nhật báo không được đăng truyện kiếm hiệp. Mỗi nhật báo chỉ được đăng một “phơi-ơ-tông” (feuilleton) cây nhà lá vườn. Nhưng ông Huyến bị mất chức rất sớm và Tổng trưởng Phạm Thái nắm lại quyền hành, “phá” ông Huyến bằng cách tung hê tiểu thuyết Tàu, Tây, Ta cho làng báo. Kết quả là nhà văn Kim Dung thao túng nhật báo miền trong những thập niên 1960 – 1970.
Truyện chưởng VN được in thành sách.
Cạnh tranh giữa các báo khi đăng truyện “chưởng”
Khi tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung xâm lăng nhật báo miền đã đẻ thêm một hiện tượng kỳ quái: Nhật báo Xây Dựng “ngứa ngáy” cho đăng Tàn chi lệnh do Tam Khôi dịch. Người dịch khôn ngoan không chịu tiết lộ tên tác giả nên không ai biết Tàn chi lệnh đã in thành sách, bán ở vỉa hè Chợ Lớn! Dịch giả Lã Phi Khanh vớ được cuốn Lệnh xé xác, thấy có vẻ hợp với độc giả tờ Tia Sáng nhưng nó rất ngắn, bèn tự nối tiếp dài dài, vô tận… Rồi ông Lã Phi Khanh bỏ Tia Sáng, đem Lệnh xé xác sang Thời Đại. Thế là báo Tia Sáng đã cử một dịch giả tiếp tục “sáng tác”. Trên hai nhật báo, hai “bản dịch”… đối lập nhau và cả hai dịch giả đều nhận mình dịch đúng nguyên tác, bản dịch của người kia là giả mạo! Ngoài Kim Dung, nhiều tác giả tiểu thuyết kiếm hiệp Hồng Kông, Đài Loan xuất hiện tấp nập (tuần báo Tuổi Ngọc số 27 ra ngày 25.11.1971).
Còn nhớ ngày nhà báo kỳ cựu Phan Nghị còn sống, năm đó đã 80 tuổi, là nhân chứng sống của báo chí miền Nam, tôi có hỏi về các chi tiết vừa nêu trên. Ông Nghị đồng tình và phát biểu: “Thời ấy, với các nhật báo, tầm quan trọng của Kim Dung còn hơn cả… sự thay đổi nội các. Người ta mê Kim Dung tới mức độ bữa nào không đăng tiếp truyện Kim Dung là ăn mất ngon. Các trí thức khoa bảng trước đây chỉ thích đọc báo Tây, nay cũng phải mua báo Việt để đọc Kim Dung. Quả là một hiện tượng lạ!”.
Hình ảnh nữ sinh áo tím gắn với trường Gia Long Sài Gòn nổi tiếng đến ngày nay, kể cả khi trường mang tên Nguyễn Thị Minh Khai. Marie Curie là trường duy nhất không thay đổi tên trong gần một thế kỷ.
Trường THPT Marie Curie là trường duy nhất tại Sài Gòn không thay đổi tên ban đầu có từ thời thuộc Pháp. Trường mở cửa năm 1918 với tên gọi Lycée Marie Curie, chỉ tiếp nhận nữ sinh. Ảnh trên chụp vào giờ tan trường trước năm 1975, nữ sinh mặc đồng phục cả váy và áo dài. Trước 1975, trường dành cho con em người Pháp và một ít nữ sinh con nhà giàu có thế lực ở Sài Gòn, giảng dạy bằng tiếng Pháp.
Sau 1975, trường chuyển thành trường THPT bán công, cho cả học sinh nam lẫn nữ. Có thời kỳ đây là trường THPT lớn nhất Việt Nam với hơn 5.000 học sinh mỗi năm. Năm 2007, trường được đổi lại thành trường Trung học phổ thông công lập, giảm dần sĩ số nhằm tăng chất lượng giáo dục. Kiến trúc đậm chất Pháp lưu lại trên cổng chào, từng góc cầu thang gỗ, khu vườn với đài phun nước… vẫn còn đến ngày nay. Ảnh: Khánh Ly
Trường chuyên Lê Hồng Phong ngày nay mang kiến trúc cổ kiểu Pháp. Trường xây dựng năm 1927, lúc đầu có tên gọi Collège Petrus Ký hay còn gọi là Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký. Kiến trúc ngôi trường được gìn giữ theo năm tháng ở ảnh trên (chụp những năm đầu thập niên 40) và 2014.
Từ ngôi trường giàu truyền thống này, các thế hệ học sinh – thanh niên yêu nước đã châm ngòi cho cách mạng chống Pháp, chống Mỹ với những tấm gương Trần Văn Ơn, Hồ Hảo Hớn… Họ đã anh dũng ngã xuống tạo nên làn sóng biểu tình dâng cao khắp Sài Gòn – Chợ Lớn, đòi quyền lợi cho học sinh. Từ năm học 1976-1977, trường mang tên cố Tổng Bí thư Trung ương Đảng Lê Hồng Phong, là trường chuyên nổi tiếng ở Sài Gòn ngày nay.
Lê Quý Đôn là trường trung học xưa nhất tại TP HCM, được thành lập năm 1875, hoàn thành xây dựng năm 1877 với tên gọi ban đầu là Collège Indigène, sau đổi thành Collège Chasseloup-Laubat. Hiện nay trường đào tạo 2 bậc giáo dục là trung học cơ sở (cấp 2) và trung học phổ thông (cấp 3).
Trường có nhiều cổng, hiện cổng chính nằm mặt tiền đường Nguyễn Thị Minh Khai làm cổng ra vào cho học sinh bậc trung học phổ thông, cổng sau ở đường Lê Quý Đôn là hướng của học sinh cấp trung học cơ sở.
Ngày nay, kiến trúc tòa nhà vẫn giữ đậm chất Tây Âu với những dãy nhà màu vàng đứng hiên ngang qua hơn thế kỷ thăng trầm và trở thành “nỗi nhớ niềm thương” của những học trò một thuở. Ảnh: Khánh Ly.
Trường Trưng Vương tọa lạc tại số 3A Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1, trên con đường nhiều bóng cây cổ thụ xanh mát. Vào thế kỷ trước, đây vốn là trường dành cho nữ sinh. Ảnh trên, các nữ sinh thướt tha trong bộ đồng phục áo dài trắng, quần đen được chụp vào thập niên 60. Ảnh dưới ngôi trường có kiến trúc Pháp với tường vàng, mái ngói đỏ nổi bật giữa phố phường, được nhiều tờ báo bình chọn là một trong những ngôi trường có kiến trúc đẹp của Sài Gòn.
Trường được thành lập ở Hà Nội năm 1917 với cái tên trường Nữ trung học, hay còn gọi là Đồng Khánh. Sau hiệp định Geneve, một bộ phận của trường di chuyển vào Nam. Năm 1957, trường chính thức được chuyển về đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, nằm cạnh trường Võ Trường Toản (khi ấy chỉ dành cho nam sinh) cho đến ngày nay.
Những hàng cây cổ thụ phía trước gắn với ký ức của cựu học sinh Trần Nam. Ông Nam nay tóc đã bạc trắng. “Gốc cây này là nơi chúng tôi – những nữ sinh Trưng Vương và nam sinh Võ Trường Toản – đã túm tụm quanh chiếc xe đạp của ông bán bò khô đểthưởng thức biết bao mùi vịthơm ngon ngọt cay chua cùng tụlại… trên đĩa gỏi nhỏ”, cựu học sinh Võ Trường Toản hồi tưởng. Ảnh: Khánh Ly
Đầu thế kỷ 20, nền giáo dục Việt Nam còn mang tính chất Nho giáo, ít chú trọng đến giáo dục nữ giới. Năm 1908, một số trí thức người Việt đề nghị chính quyền Pháp thành lập một ngôi trường nhiều cấp học dành cho nữ. Năm 1915, khóa đầu tiên trường tuyển 42 nữ sinh, đồng phục là áo dài tím, tượng trưng cho sự tinh khiết của phụ nữ Việt Nam, tên trường Nữ sinh Áo Tím bắt nguồn từ đó. Năm 1953, trường được đổi tên thành Trường Nữ trung học Gia Long.
Niên khóa 1978-1979, trường giải thể cấp 2, thu nhận nữ sinh lẫn nam sinh, đổi tên thành Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 2003, trường được đưa vào danh mục 55 công trình đề nghị điều tra xác lập di tích kiến trúc cổ của TP HCM. Mặt tiền trường “Nữ sinh áo tím” năm 1925 (ảnh trên) và nay có những thay đổi nhất định, khang trang hơn nhưng vẫn giữ tinh thần chủ đạo của kiến trúc Pháp.
Thời chống Mỹ, học sinh Gia Long là một trong những trường đi đầu của phong trào học sinh sinh viên Sài Gòn rải truyền đơn, xuống đường biểu tình đòi độc lập. Mới đây, Nguyễn Lê Vân 23 tuổi, cựu học sinh Nguyễn Thị Minh Khai đã quay về trường xưa thực hiện bộ ảnh áo dài tím, kỷ niệm trường tròn 100 tuổi. Áo tím được coi là đồng phục đầu tiên của trường Gia Long. Vân chia sẻ niềm tự hào khi là nữ sinh của ngôi trường áo tím, màu tím tượng trưng cho đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhường của thiếu nữ Việt Nam. “Áo tím là niềm tự hào của rất nhiều thế hệ nữ sinh trường không chỉ học giỏi, đức độ mà còn biết đặt mơ ước vào những lý tưởng cao cả và thực hiện mơ ước đó trên mọi nẻo đường đất nước”, cô gái trẻ nói. Màu tím cũng trở thành màu bộ váy đồng phục duyên dáng của nữ sinh Minh Khai hiện nay. Ảnh: Khánh Ly.
Trường Trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa được tu sửa từ trường dòng Lasan Taberd, thành lập năm 1874. Đến nay trường Trần Đại Nghĩa là trường trung học công lập chuyên, dành cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Hiện nay trường là một trong 5 trường phổ thông chuyên (hoặc có lớp chuyên), trọng điểm của thành phố nổi tiếng với tỷ lệ chọi đầu vào rất cao. Kiến trúc đậm chất Pháp của trường với màu tường vàng, cửa sổ vòm tròn… được gìn giữ đến hôm nay. Ngôi trường có 2 cổng, một trên con đường lá me bay Nguyễn Du, cổng kia ở đường Lý Tự Trọng, quận 1.
Bố ai thì cũng hút nhiều thuốc, các cụ nhà mình hầu như ai cũng có một thời hút thuốc. Văn hóa hút thuốc ở Việt Nam tuy không chính thức nhưng âm thầm tồn trong những câu chuyện gần gũi anh em, bạn bè, họ mạc. Cũng vì thế nên dù không được khuyến khích mà chẳng bảo tồn thì mình cũng mất đi hàng ti tỉ thứ hay ho.
Thuốc lá ở miền Nam Việt Nam:
Thuốc lá Quân tiếp vụ
Quân tiếp vụ là một bộ phận thuộc Tâm lý chiến VNCH. Đây là một cơ quan cung cấp hàng hóa nhu yếu phẩm như thuốc lá, bia, rượu, sữa, đường… cho binh sĩ VNCH và gia đình với giá thấp hơn giá thị trường.
ngoài J.bastos bao trắng được quân đội SG đặt hàng, hãng thuốc lá Juan Bastos (có nhà máy đặt ở khánh Hội, Q 4) còn sản xuất j.bastos bao đỏ và bao xanh bán ra thị trường
Thời đó trong quân đội SG còn có thuốc lá có tên là Ruby Queen màu xanh để phân biệt với nhãn hiệu cùng loại bán cho dân sự có mầu hồng. Thuốc lá Ruby Queen do hãng Mic sản xuất, nay là nhà máy thuốc lá Sài Gòn nằm ở đường Trần Phú, Q5
SALEM? Thanh Niên Sài Gòn khi xưa rất thích ý nghĩa nhãn thuốc này vì khi đọc xuôi thì : Sao Anh Làm Em Mệt Và khi đọc ngược mới có : Mà Em Làm Anh Sướng
Tiếng lóng Sài gòn: “Ok Salem” Salem (Sao em làm anh mệt) là loại thuốc lá Mỹ rất thông dụng, ý nói đồng ý, được rồi.
Ngoài các loại thuốc lá ngoại nhập như Pall Mall, Salem, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston, Marlboro… có rất nhiều nhãn hiệu thuốc được sản xuất tại Sài Gòn. E.Mélia “vàng” Mélia “vàng”, còn gọi là “Mélia Jaune”, là một trong những nhãn hiệu thuốc lâu đời nhất. Vào lúc mới tung ra sản phẩm, mỗi gói thuốc Mélia đều có một tấm hình chụp một cặp Tây Ðầm hôn nhau rất tình tứ, đó cũng là một cách tiếp thị! Chỉ có các ông Giáo sư và các thầy Thông, thầy Phán có tiền rủng rỉnh mới hút thứ thuốc “sang trọng” đó.
Nếu Mélia được coi là “sang trọng” thì Cotab được quảng cáo là “thuốc của giới ưu tú” (La cigarette de l’élite) còn Bastos “xanh” và Mic được coi là loại thuốc “đen”, nặng của giới lao động, thợ thuyền.
Hỡi ai đi sớm về trưa Kiu Bát Tốt Lát đón đưa chào mời Hương thơm khói đậm tuyệt vời Hút cho một điếu cho đời thêm tươi
THUỐC CAPSTAN
Tại miền Nam xưa kia, thuốc này được nhiều dân tiêu dùng biết đến và có nhiều phụ đề khác nữa.
– Chiếc Áo Phong Sương Tình Ân Nghĩa.
Và ngược lại là :
– Nghĩa Ân Tình Sư Phụ Ân Chi.
– CHIẾC ÁO PHONG SƯƠNG TẠI ANH NGHÈO
– Chiếc Áo Phong Sương Tặng Ấm Nàng.
Và ngược lại là :
– Nặng áo Thư Sinh Phụ Áo Chàng.
– Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát.
Và ngược lại là :
– Nhờ Anh Tốt Số, Phận Anh Còn.
– Chiều Anh Phải Sáng Tối Ăn Nhậu ( Ông Bia Hơi há? )
– Chiếc Áo Phong Sương Tặng Anh Nhé
Và ngược lại là :
– Nặng Ân Tình Son Phấn Anh Cho
– Con Anh Phá Sản Tại Anh Ngốc
Và ngược lại là :
– Nhà Anh Thiếu Sữa Phải Ăn Cắp
– Công An Phường Sẽ Tóm Anh Ngay
Thuốc lá miền Nam sau năm 1975
Muốn hút thuốc thì phải có bật lửa hộp quẹt hay bao diêm, và nhãn bao diêm cũng là một thứ được thiết kế khá tưng bừng ngày xưa cũ.
Thuốc lá miền Bắc Việt Nam
Trong thập niên 60-70 của thế kỷ 20 ,tại miền Bắc Việt Nam thường có các loại thuốc sau:
1.Nhãn hiệu BA ĐÌNH (dùng cho cấp cao nhất)
2,Nhãn hiệu THĂNG LONG (dùng cho cán bộ cao cấp)
3.Nhãn hiệu THỦ ĐÔ (dùng cho cán bộ trung cấp)
4,Nhãn hiệu ĐIỆN BIÊN (Dùng cho cán bộ trung cấp và sơ cấp)
5.Nhãn hiệu TAM ĐẢO (dùng cho cán bộ sơ cấp)
6.Nhãn hiệu TRƯỜNG SƠN (dùng cho cán bộ sơ cấp)
7.Thuốc tự cuốn và thuốc ..LÀO
Do kinh tế khó khăn nên có câu thơ:
Tạm biệt ĐIỆN BIÊN,vãy chào TAM ĐẢO
Vượt TRƯỜNG SƠN ta tiến sang LÀO..
Hay tích cực hơn lại có cả bài thơ
Vi thằng giặc mỹ Giôn sơn
Nên ta phải vượt Trường Sơn qua Lào
Thủ đô xa tự năm nào
Giã từ Tam Đảo, vẫy chào Điện Biên
Nay mai chiến thắng trăm miền
Thủ đô, Tam Đảo, Điện Biên lại về.
Hà Nội giải phóng, nhiều khu công nghiệp mọc lên và Cao – Xà – Lá (bao gồm nhà máy cao su, xà phòng và thuốc lá Thăng long) là một trong khu công nghiệp đầu tiên.Sản phẩm của nhà máy thuốc lá Thăng LongSản phẩm của nhà máy thuốc lá Thăng Longvỏ bao thuốc lá Sông Cầu . Tái hiện bởi ” Hà Nội Xưa”
Loại thuốc lá Bác Hồ ưa thích?
Chúng ta vốn lờ mờ biết rằng Bác thích thuốc lá Mỹ, khi hút thuốc lá Trung quốc thì Người bị ho và sau đó người đã bỏ thuốc lá. Bỏ xong chưa được bao năm thì Người từ trần. Thuốc lá Mỹ mà nổi tiếng vào thời đó có thể là Camel, Philip Morris.. Tóm lại phải là sợi thuốc Virgnia đượm nắng. Nhưng Bác Hồ thường hút loại nào trong giai đoạn làm Chủ tịch nước?
Có hai câu chuyện sau cho ta manh mối
1. ” Sáng hôm sau ông y hẹn đến gặp Bác. Bác hồ mời uống nước trà và đưa hộp Craven “A” mời ông. Nguyễn Sơn cảm ơn và bẻ điếu thuốc nhét vào tẩu thuốc của ông. Ông châm lửa hút. Kiểu cách cầm ống điếu có vẻ phong lưu công tử.”
2. Họa sĩ Phan Kế An
Trong 3 tuần được làm việc cạnh Bác, tranh thủ từng giây phút, với bút chì và bút sắt, Phan Kế An đã vẽ rất nhiều tranh và ký họa. Đến bây giờ nhớ lại, cụ vẫn cho rằng đó là món quà vô giá mà mình có được.
Trong thời gian gần Bác, Phan Kế An học được những bài học lớn thông qua những câu chuyện, những hành động giản dị của Người. Trong ký ức họa sĩ già còn nhớ rất rõ, lúc đó Bác có hộp thuốc lá Craven A, mỗi hộp có 50 điếu thuốc.
Lần nào Bác hút thuốc cũng mời Phan Kế An một điếu và ân cần châm diêm cho. Vì phải tranh thủ vẽ nên có những lúc An không kịp hút thuốc mà bỏ vào túi. Chợt nhớ ở cơ quan (báo Sự thật), rất nhiều anh em hoạt động cách mạng từ lâu mà chưa được gặp Bác, nếu có điếu thuốc của Bác làm kỷ niệm thì chắc vui và tự hào lắm. Thế là Phan Kế An “nuôi” ý định gom góp thuốc về tặng anh em, xem như “lộc” cùng hưởng.
Hôm trước khi kết thúc nhiệm vụ, được Bác mời một điếu thuốc, nhưng đang vẽ dở những nét cuối, họa sĩ chưa kịp hút, lại bỏ vào túi, chợt nghe tiếng Bác hỏi: “An tích trữ được bao nhiêu điếu rồi?”. An bày tỏ ý định mang thuốc về tặng anh em và mới tích trữ được 13 điếu, Bác hỏi trong cơ quan có bao nhiêu người. Con số 30 được đưa ra, thế là Bác rút thêm 17 điếu để An mang về làm quà.
Vậy có thể kết luận Bác hút Craven “A” trong giai đoạn làm chủ tịch nước.
Hinhanhvietnam.com tổng hợp từ Vietstamp và Dự án hai cô tiên
Có bác nào còn giữ những chiếc TV này không nhi? Một thời với bao kỷ niệm đó nha và trong đó có một sự thật cho tới ngày nay nhiều người sau 75 vẫn còn bùi ngùi…. Vì những chiếc TV này mà sau năm 75 có nhiều gia đình phải “bối rối”. Chuyện là khi bộ đội vào Sài Gòn, họ thấy những nhà có TV và anten thì cho đấy là nơi thông tin của “ngụy” nên sẽ bị bắt bớ tra xét…chắc chắn các bạn trẻ sẽ không tin, hãy về hỏi những người lớn tuổi hen.
Lược trích từ Fage: Sài Gòn Xưa
Hồi ức chiếc TV
Khi ba mở ti vi trong thùng ra, anh em tôi hét lên vang xóm và lập tức trẻ con trong hẻm chạy đến ngay, bu đầy cửa cái và cửa sổ.
Đây là cái ti vi thứ hai của xóm mà ba tôi mua với giá 5.075 đồng tiền lúc đó, mua lại của một người quen đang cần tiền bán gấp. Trước đó, chỉ có nhà dượng Hai Mỹ, một ông chủ sự (trưởng phòng) tại Air VN làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất mới mua nổi.
Đến giờ, tôi vẫn nhớ những chương trình thật hay của Đài truyền hình Sài Gòn trong suốt tuổi thơ của mình. Đó là chương trình ca nhạc thiếu nhi Tuổi xanh của kịch sĩ Kiều Hạnh, chương trình Quê ngoại đậm đà tình quê hương của nhạc sĩ Bắc Sơn. Về ca nhạc có chương trình của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với nhạc kịch Ả đào say, ban hợp ca Thăng Long với các ca khúc Ly rượu mừng, Ngựa phi đường xa… Cải lương thì ban Dạ Lý Hương, ban Thanh Minh – Thanh Nga… Xem qua đài Mỹ thì có các phim Wild wild west, Combat, Lạc trong không gian, Lỗ tai lừa… Thời sự chiến tranh hay các chương trình của người lớn thì lứa chúng tôi còn nhỏ nên không màng tới.
Sắm ti vi trở thành niềm mơ ước của nhiều gia đình miền Nam ..,“Máy truyền hình đã xuất hiện tại VN, lần đầu tiên, năm 1966. Một chiếc Denon, 12 inches, giá 16.500 đồng, 19 inches: 30.000 đồng… Mặc dù kỹ thuật còn lỉnh kỉnh, như: vô tuyến truyền hình (VTTH), chương trình cao su, hát nói nhiều hơn hình ảnh, ti vi – một danh từ mới – đã được “khán thính giả” VN chiếu cố kỹ. Nhà nhà đều có ti vi. Ai không có thì đi coi cọp. Ăng ten mọc như mắc cưởi, hướng loạn trên các mái nhà, nhất là ở các tỉnh. Chương trình được hâm mộ nhất là… cải lương và… đài Mỹ. Batman xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm. Lúc đó điện còn yếu, mỗi nhà một survolteur cho ti vi”.
Phát sóng truyền hình từ máy bay đầu tiên tại Sài Gòn
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ thiết lập hệ thống vô tuyến truyền hình cho quân đội của họ tại VN. Đồng thời họ giúp thành lập một đài truyền hình và đào tạo chuyên viên VN để tự điều hành các hoạt động, năm 1966, chính phủ VNCH khánh thành đài vô tuyến truyền hình đầu tiên, đồng thời thành lập Nha VTTH VN đặt tại Trung tâm điện ảnh. Nhiệm vụ của Nha là hằng ngày cung cấp các chương trình cho Đài VTTH Sài Gòn trên băng tần số 9, cần nhắc lại, trước đó, từ tháng 1.1966 đến tháng 12.1967, hệ thống VTTH Sài Gòn chỉ có một phim trường rất nhỏ tại Trung tâm điện ảnh số 15 Thi Sách, Sài Gòn. Trong thời gian này, các chương trình kể cả tin tức đều được thu vào băng từ (video tape) rồi được chuyển lên hai máy bay Super Constellation để phát theo hệ thống Flying station, vì thế hình ảnh thường bị rung, mờ, không rõ.
Buổi truyền hình đầu tiên phát vào ngày 29.1.1966. Trong buổi phát, máy bay vận tải Super Constellation bốn động cơ đặt tên là Ô-xanh 2 bay ở độ cao ổn định là 3.150 m. Mỗi tối máy bay này chở hàng tấn máy móc rời phi trường Tân Sơn Nhất lên tới độ cao nhất định tại một địa điểm phía đông nam Sài Gòn khoảng 32 km rồi từ đó bay theo một lộ trình không thay đổi, lặp lại mỗi đêm với tốc độ ổn định là 271 km/giờ. Máy bay bay suốt bốn giờ liên tục từ 19 giờ đến 23 giờ mới hạ cánh lại Tân Sơn Nhất. Từ 20 giờ máy bay phục vụ cho chương trình truyền hình thứ nhì loan tin và giải trí cho quân đội Mỹ đến 23 giờ. Trong máy bay có hai máy truyền hình mạnh 2.000 kW, hai máy thu hình và tiếng vào băng, hai hệ thống kiểm soát âm thanh, hai hệ thống vô tuyến điện ảnh dùng phim 16 ly. Các làn sóng điện đem theo hình ảnh và âm thanh có thể được tiếp nhận tới các nơi xa Sài Gòn như Campuchia (cách 120 km), Đà Nẵng (608 km), Cà Mau (206 km). Tuy nhiên Sài Gòn và tỉnh lân cận mới tiếp nhận hoàn hảo.
Vào khoảng cuối năm 1967, hệ thống này được mở rộng hơn, hai máy bay Super Constellation được thay bằng máy bay Blue Eagle. Đến tháng 3.1968, khi đài truyền hình mới đã được xây xong tại số 9 Hồng Thập Tự (nay là trụ sở Đài truyền hình TP.HCM) thì nhờ có trụ phát tuyến cao nên hình ảnh được rõ ràng, không còn mờ rung như khi phát hình bằng máy bay nữa. Từ đó các chương trình đầy đủ và phong phú hơn.
Em sinh ra tại Sài Gòn, nên em cũng rất giống Sài Gòn. Ngày như hoa, đêm như lệ. Cảm xúc lúc gắt như nắng lúc ủ dột như mưa. Nói chung là em cười rồi em mếu ngay cũng được. Chiều được em khó lắm rồi, giữ được em lại càng không dễ.
Sài Gòn về đêm . Nguồn: internet
Em sinh ra tại Sài Gòn, nên em cũng rất giống Sài Gòn.
Em nhận mình là người đỏng đảnh, là cô gái được nuông chiều. Em quen sống trong tình yêu của gia đình, sự quan tâm của bạn bè, và cả sự tử tế của xã hội. Em chưa từng vấp phải cú ngã nào đau thật đau, cũng chưa từng phải chịu một nỗi đau nào thật sâu. Em nhận mình là người may mắn, là cô gái sống vốn trong yêu thương.
Nhưng cũng như Sài Gòn là một vùng trời riêng, em có lòng tự tôn của riêng em. Em được cưng chiều, nhưng em có tiếng nói của em. Em sống trong yêu thương nhưng em hiểu thế nào là mất mát. Em thành công nhưng em cũng đã thất bại. Có chăng em cũng như Sài Gòn, qua bao gian nan vẫn không dừng lại.
Sài Gòn là một thành phố của những sự đối lập. Và em cũng vậy.
Em đủ ngoan và cũng đủ hư vì chẳng ai là người hoàn hảo. Em dịu dàng nhưng em cũng rất dễ nóng giận, đặc biệt là với những người em yêu thương nhất. Em thoải mái nhưng em cũng có những quy tắc khó bỏ. Em có thể rộng lòng nhưng chẳng bao giờ em quên. Cũng như Sài Gòn qua mấy mươi năm, người ta vẫn gọi là Sài Gòn thay vì thành phố Hồ Chí Minh. Chẳng vì lý do gì, chỉ là một thói quen khó bỏ. Em rạng rỡ nhưng em vẫn u sầu. Em tươi mới nhưng trong em vẫn còn những kỷ niệm xưa. Những chuyện đã qua chưa bao giờ nhạt, nhưng em cũng chẳng vì những lối cũ mà bỏ qua những con đường khác.
Sài Gòn nắng gay gắt và mưa dai dẳng. Em thương nhiều nhưng giận cũng thật lâu.
Sài Gòn xa hoa, ngày rộn ràng còn đêm phủ đầy những sự lấp lánh. Nhưng Sài Gòn cũng tàn nhẫn, ngày ướt mồ hôi còn đêm vật vã trong cái lạnh. Em ấm áp nhưng em cũng lạnh lùng. Em có thể cười đó, nhưng nụ cười của em không dành cho người. Em có thể yêu dài lâu, nhưng sẽ không đậm sâu.
Sài Gòn là nơi mọi người đều muốn đến, nhưng lại không phải là nơi an toàn. Người sống ở Sài Gòn luôn nằm trong sự dè dặt, cẩn trọng. Em sinh ra tại Sài Gòn, nên em cũng rất giống những người ở Sài Gòn khác. Em phải tự bảo vệ mình, phải cẩn trọng với tất cả mọi thứ xung quanh em, kể cả đó là người em thương. Trong em luôn cần sự an toàn, và chưa bao giờ em cảm thấy đủ.
Sài Gòn là nơi em được sinh ra. Em lớn lên cùng Sài Gòn, đi nơi xa cũng về lại Sài Gòn. Em vẫn vậy và cũng sẽ mãi như vậy. Dù Sài Gòn có đổi thay thì vẫn là Sài Gòn, còn em có khác biệt thế nào thì em vẫn chỉ là em.
Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.
Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.
Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân…
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.
Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?
Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.
Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – Hình như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất … Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.
Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.
Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.
Lương Thái Sỹ – An Dân
Vài hình ảnh cảnh quán xá Cafe Sài Gòn xưa:
Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu vamột quán cà phê người Tàu của Sài Gòn xưa
Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu vamột quán cà phê người Tàu của Sài Gòn xưa