Những năm 1950-1960, xe ngựa kéo là phương tiện vận chuyển công cộng chủ yếu, len lỏi trên các đường phố Sài thành cùng với xe máy, xe đạp, xe kéo tới xe xích lô,..
Tại sao gọi là xe Thổ mộ?
Loại xe này có cái mui cong nhìn giống mả (mộ) đất nên được người dân gọi là xe thổ mộ. Còn một giả thiết khác, tên thổ mộ xuất phát từ tiếng Quảng Đông, người Hoa gọi xe độc mã là “ thu ma”, lâu dần người Việt cũng đọc trại theo là “thổ mộ”.
Nhiếp ảnh gia Carl Mydans ghi lại hình ảnh xe ngựa trên đường phố Sài Gòn năm 1950. Đây là con đường gần ngân hàng Pháp Hoa, góc đường Hàm Nghi – Phủ Kiệt xưa, nay là ngã tư Hàm Nghi – Hải Triều.
Một khách dừng xe ở góc đường quận 1. Người dân ưa chuộng xe ngựa vì tính tiện dụng và nhanh chóng, có thể xuống xe bất cứ lúc nào và bất cứ đâu. Ảnh chụp bởi Carl Mydans, năm 1950.Chiếc xe bò chở hàng tại góc đường Khổng Tử – Tổng Đốc Phương, nay là ngã tư Hải Thượng Lãn Ông – Châu Văn Liêm, ảnh chụp năm 1950 đăng trên tạp chí Life.Ảnh chụp năm 1950 do Carl Mydans chụp, tại đường Phan Bội Châu ngày nay, bên hông chợ Bến Thành. Xe thổ mộ có thùng, khoang để khách ngồi, dài 1,18 m, chiều cao 1 m dùng vật liệu bằng gỗ mít, phía trên chia làm ba ô cửa sổ. Hai bánh xe làm bằng cao su và gỗ giáng hương được tiện khá sắc sảo.Xe thổ mộ chờ khách ở Chợ Lớn, nay là khu vực quận 5, ảnh chụp bởi Jack Garofalo năm 1961.Xe thổ mộ năm 1965 đi ngang qua công trường Mê Linh, ảnhdo Bruce Baumler chụp. Đây là đường Tôn Đức Thắng ngày nay, đi dọc bờ sông Sài Gòn. Xe thổ mộ năm 1965 đi ngang qua công trường Mê Linh, ảnh do Bruce Baumler chụp. Đây là đường Tôn Đức Thắng ngày nay, đi dọc bờ sông Sài Gòn.Bùng binh chợ Bến Thành năm 1966 do Darryl Henley chụp. Ở Sài Gòn – Gia Định thời ấy có nhiều bến xe ngựa chạy khắp các tuyến đường. Bến xe ngựa trước chợ Bến Thành luôn đông đúc và nhộn nhịp vì là trung vực trung tâm thành phố, xe vào bến phải xếp hàng, khi nào đủ 7-8 khách là xe lên đường theo tuyến về Đa Kao hay vào Chợ Lớn hoặc xuống Tân Thuận.Ảnh xe ngựa đi ngang chợ Cũ đường Hàm Nghi khoảng năm 1965-1966, được chụp bởi Thomas W. Johnson. Hình ảnh chiếc xe ngựa với những tiếng kêu lách cách và cặp bánh gỗ to đã trở nên quen thuộc với người dân miền Nam xưa.Tác giả HG Waite chụp bức ảnh này vào tháng 1/1968, trước cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân vài tuần. Ảnh chụp tại bến xe ngựa, xe lam gần bùng binh chợ Sài Gòn. Tương tự như xe buýt hiện nay, những chiếc xe thổ mộ là phương tiện giao thông công cộng phổ biến thời bấy giờ, chở người và hàng hóa, có những bến đỗ riêng.Ảnh chụp ở Chợ Cũ năm 1968, góc Hàm Nghi – Võ Duy Nghi, nay là đường Hàm Nghi – Hồ Tùng Mậu. Ngày nay, tại Thủ Dầu Một (Bình Dương) còn lại một vài nghệ nhân có thể phục chế chiếc xe thổ mộ, mục đích để phục vụ cho các trung tâm lưu giữ, bảo tàng.Những năm 1980-1990, xe ngựa được thay thế bởi ôtô và xe máy. Xe thổ mộ trở thành một thời quá vãng. Hiếm hoi mới có những người cưỡi ngựa trên đường phố Sài Gòn. Ảnh được tác giả Thanh Tùng chụp tại đường Nguyễn Huệ, quận 1, năm 2004.
Đường phố Hà Nội thời Pháp thuộc – trước 1954:
1. Rue soeur Antoine – phố Hàng Bột
2. Rue d’Autigeon (Đặng Tất)
3. Avenue Beauchamp là tên cũ phố Nguyễn Chế Nghĩa, từ dưới dốc Hàng Đào đến nhà Khai Trí Tiến Đức.
4. Avenue Général Bichot, tên cũ phố Cửa Đông
5. Avenue Brière de I’Isle, tên cũ của đường Hùng Vương
6. Rue Antoine Bonnet nay là phố Nguyễn Gia Thiều
7. Bonifacy tên cũ phố Châu Long đoạn phía bắc
8. Boulevard Gia Long (Đại Lộ Gia Long) nay gọi là Phố Bà Triệu
_d Bobillot , tên cũ phố Lê Thánh Tông thời Pháp thuộc.
10. Boulevard Carnot nay là phố Phan Đình Phùng
11. Rue Boissière phố Nguyễn Xí bây giờ
12. Rue Barona tên cũ phố Liên Trì (đoạn phía bắc)
13. Rue Général Beylié là tên cũ phố Hàng Chuối
14. Rue Bourrin, tên cũ phố Yên Ninh
15. Rue Capitaine Bruisseau, tên cũ phố Tống Duy Tân
16. Boulevard Carreau nay là phố Lý Thường Kiệt
17. Rue Berthe de Vilers là tên cũ phố Đinh Công Tráng
18. Rue Borgnis Desbordes giờ là phố Tràng Thi
19. Rue Bourret, tên cũ phố Ngõ Trạm
20. Rue Bovet tên cũ phố Yết Kiêu bây giờ
21. Rue Bernard de Beau tên cũ phố Nguyễn Chế Nghĩa
22. Rue des Cantonnais giờ là Phố Hàng Ngang
23. Cité Bảo Hưng là tên cũ ngõ Lê Văn Hưu I
24. Rue Cambanère tên cũ phố Hàng Bút
25. Phố Duvigneau nay là Bùi Thị Xuân
26. Rue Docteur Calmette sau này là phố Yersin
27. Rue Graffeuil – Phố Bích Câu thuộc đất hai thôn cũ Yên Trạch và Cát Linh
28. Rue Londe – năm 1964 đổi tên là Ngõ Hàng Bông nay gọi là Phố Cấm Chỉ
29. Place Neyret (Quảng trường Neyret) nay gọi là Vườn hoa Cửa Nam trước kia còn gọi là Bách Việt
30. Paris – Tên vườn hoa cạnh Nhà Hát lớn đặt trong thời tạm chiếm 1947-1954
31. Rue Paul Bert nay là phố Tràng Tiền thời Pháp đi từ Quảng trường Nhà Hát Lớn đến hết phố Hàng Khay.
32. Ruelle Père Lecornu (Phố Đức Cha Lecornu): giờ gọi là Ấu Triệu
33. Rue Hillaret giờ gọi là Ngõ Nguyễn Hữu Huân
34. Rue Maréchal Pétain (Thống chế Petain của nền CH thứ 3) giờ là Phố Nguyễn Hữu Huân
35. Impasse Verdun nay là ngõ Phan Huy Chú.
36. Rond point Puginier (bùng binh Puginier) – nay là Quảng trường Ba Đình
37. Rue Résident Morel (khu Morel) năm 1946 gọi là phố Mạc Đĩnh Chi nay gọi là Bà Huyện Thanh Quan
38. Rue Paul Balny là tên cũ phố Trần Nguyên Hãn
39. Rue Pottier trước có tên là Báo Khánh ở phía tây Hồ Gươm
40. Square Gambetta (ngã tư Trần Thánh Tông và Trần Hưng Đạo).
41. Rue Julien Blanc: phố phủ Doãn ngày nay
42. Route Blockhaus Nord (đường Lô Cốt Bắc) phố Phó Đức Chính ngày nay
43. Rue Paul Bert – Vườn hoa và phố ( chưa biết là ở đâu ở HN???)
44. Rue du Pont en bois – Phố Cầu Gỗ
45. Rue Riquier tức Nguyễn Du bây giờ
Người Sài gòn khi dùng cụm từ ” Dân chơi Cầu Ba Cẳng ” là để ám chỉ một phần những người chơi không đàng hoàng đi kèm một sự quá đáng hay không xứng đáng ở phong cách thể hiện… môt sự hợm hỉnh ,không phù hợp và không đúng với xu hướng Thời trang , xuất phát từ đặc điểm lịch sử qua các thời kỳ…
Cũng được gọi là DÂN CHƠI nhưng không bao giờ “ Dân chơi Cầu Ba Cẳng ” được xếp vào hàng Đẳng cấp do không có tính ” Sành điệu…Phong độ và Oai hùng ” như Dân chơi Sài gòn thứ thiệt…cụm từ “ Dân chơi Cầu Ba Cẳng ” vẫn còn là một cách nói đặc trưng không thể trộn lẫn trong giao tiếp của người Sài Gòn xưa. và bây giờ….
Đây là tấm hình hiếm hoi còn sót lại của cầu Ba Cẳng, một cây cầu chẳng có mấy quan trọng, nhưng nó đã trở thành một phần của lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn xưa, với cái tên nghe thật dân dã và cũng có lắm chuyện xưa liên quan đến nó, như chuyện “Dân chơi cầu Ba Cẳng” của nhà văn Trương Đạm Thủy: “Ở vùng Quận 6 Chợ lớn cách đây mấy mươi năm có một cây cầu bằng sắt có hình dạng rất lạ có ba chân. Vì cầu chẳng có cái tên chính thức nào như cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Chà Và, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận … nên người dân lấy hình mã đặt tên, tức cầu Ba Cẳng” – trích lời nhà văn Trương Đạm Thủy.
Cầu Ba Cẳng ở đâu?
Cầu Ba Cẳng ở quận 6 Chợ Lớn, bắc qua rạch Bãi Sậy, gần Chợ Bình Tây, và gần phía sau chợ Kim Biên (chợ Kim Biên chỉ mới có sau 1975, trước đó vị trí chợ là một công viên). Chân cầu bên phải là đường Gò Công ngày nay.
Phía sau chợ Kim Biên, nối 2 bờ rạch Hàng Bàng. Gần cầu Ba Cẳng, ở ngã ba rạch Bãi Sậy từ kênh Tàu Hủ và rạch chạy đến đường Kim Biên (tiếng Quảng Đông nghĩa là Cao Miên, vì trước đây gọi là đường Cao Miên hay rue de Cambodge) là đường Gò Công, đây là đường từ Chợ Lớn đi xuống Gò Công (cầu Ba Cẳng có bậc đi xuống đường Gò Công).
Trụ sở và xưởng sản xuất “xà bông Việt Nam” nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên.
Cầu Ba cẳng nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và Cầu Ba Cẳng tồn tại đến năm 1990 thì bị sập không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Phía sau chợ Kim Biên vẫn còn một đoạn rạch rất ngắn khoảng 30m rộng 3m, trước đổ ra thẳng kênh Tàu Hủ.
Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, rạch Bãi Sậy hay kênh Hàng Bàng ngày nay đã lấp đến 90% trở thành đường Bãi Sậy và đường Phạm Văn Khỏe, Quận 6, chạy từ rạch Lò Gốm (phía bên trái) ngang qua chợ Bình Tây, tới chỗ cầu Ba Cẳng rẽ phải một đoạn ngắn chảy ra rạch Tàu Hủ. Đây là con đường chính để đưa hàng hóa đến chợ và hàng hóa từ chợ sau đó lại tỏa đi khắp nơi khi vận tải đường bộ còn chưa phát triển trong nửa đầu thế kỷ 20.
Kênh Bonard, tức rạch Bãi Sậy, Chợ Lớn, cũng được gọi là kênh các lò gốm. Cái cẳng thứ 3 của Cầu 3 cẳng là hướng thẳng vào trục đường Trịnh Hoài Đức. Và đúng là rạch Lò Gốm và Bãi Sậy là 2 rạch khác nhau. Nhiều rạch xưa nay đã bị lấp, nên trên các bản đồ Sài Gòn mới sau này không còn tìm thấy chúng. Trong phần chú thích tiếng Pháp có ghi rõ: “Đường nhà buôn (tức là đường Nguyễn Văn Thành). Kênh Bonard, cũng được gọi là kinh các lò gốm, là một huyết mạch thương mại chính của Chợ Lớn”.
Đoạn cuối rạch Bãi Sậy gần Cầu Ba Cẳng, nhìn từ cầu Palikao. Cầu Palikao là cầu qua rạch Bãi Sậy trên đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một câu gần Bắc Kinh, gọi là Bát lí kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh
Gần cầu Palikao và chợ Kim Biên hồi xưa có ngôi nhà lớn của một trong bốn người giàu nhất Sài Gòn, đó là ông Trần Hữu Định, cũng được gọi là Bá hộ Định, người được xếp thứ tư trong “Tứ đại Phú Gia Sài Gòn”: Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định.
Cầu Ba Cẳng nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức (là con đường chạy thẳng ở cuối rạch Bãi Sậy). Đi về phía phải của Cầu Ba Cẳng trong hình này vài chục mét là tới chợ Kim Biên ngày nay, còn về phía trái khoảng 200m là tới Đại lộ Đông Tây và kênh Tàu Hủ. Hình này chụp khoảng đầu thập niên 1950, ngày nay cầu này không còn nữa. Cái cẳng trong hình này là cẳng đi xuống đường Yunnan, tức đường Vân Nam (sau 1955 là đường Vạn Tượng), còn hai cẳng kia thì bắc qua hai con đường hai bên rạch Bãi Sậy: bên trái xuống bến Bãi Sậy, bên phải xuống bến Nguyễn Văn Thành nơi đầu đường Cambodge (sau 1955 là đường Kim Biên).
Cầu có “3 cẳng” đều giống nhau nên khó phân biệt được cẳng nào với cẳng nào.
HinhanhVietNam.com sưu tầm và tổng hợp từ khoquatrai.blogspot.com
Một vài hình ảnh về lớp học và trường học ngày xưa.
Bài viết luôn được cập nhật liên tục, bạn đọc có tư liệu liên quan xin vui lòng gửi cho HinhanhVietNam.com !
Sự cải cách quan trọng nhất trong nền giáo dục của người Pháp đã đem tới cho Việt-Nam là các bộ môn khoa học.Trong nhiều thế kỷ, dân Việt-Nam chỉ dựa trên nền triết lý Khổng Mạnh để tổ chức gia đình và xã hội, tất cả đều dựa trên chữ nghĩa.
Ông đồ và học tròTrường làngTrường tỉnhHọc trò của một trường trung họcMột lớp họcMột lớp học thời PhápGiờ địa lýGiờ hóa họcGiờ sinh vật họcGiờ thể thaoGiờ lịch sử ?Giờ thể thao
Nào ta cùng ngắm nhìn lại những hình ảnh về Tết Trung thu xưa để thấy được những phai nhạt đã loang dần theo năm tháng của những phong vị ngày xưa trong ngày tết truyền thống này.
Ký ức mùa trăng
Tết Trung Thu có từ bao giờ, do ai là người đưa Tết này từ Trung Quốc vào nước ta vào khoảng thời gian nào thì chưa có tài liệu sử sách chính xác nào đề cập đến. Chỉ biết một điều rằng Tết Trung Thu đã có ở nước ta từ tự thuở đời nào rồi, và nó có sự biến đổi liên tục qua nhiều giai đoan thăng trầm của thời gian.
Điều hấp dẫn đối với lũ trẻ là đứng nhìn những người thợ đóng bánh ngoài quầy tạo nên những âm thanh rộn ràng khi khuôn bánh gõ mạnh trên mặt bàn theo những nhịp điệu khoan nhặt rất đặc trưng trên đường phố. Những cửa tiệm quanh chợ bắt đầu trang trí, bày biện các mặt hàng để sửa soạn cho Tết trung thu. Đám con trẻ thời ấy háo hức lạ kỳ với Tết trung thu, chúng bị cuốn hút bởi các thú vui truyền thống, mộc mạc nhưng tinh tế của dịp lễ cổ truyền này.
Một cửa hàng bánh trung thu thời xưa, nay chỉ còn là dĩ vãng. Bánh Trung thu truyền thống, và đúng vị nhất, bao giờ cũng chỉ đơn giản là bánh nhân hạt sen một lòng trứng. Và bánh này luôn được tăng vị bằng trà ướp sen.Những cửa tiệm quanh chợ bắt đầu trang trí, bày biện các mặt hàng để sửa soạn cho Tết trung thu
Đèn lồng, đèn cá chép, đèn kéo quân luôn làm những đứa trẻ thèm thuồng. Những đầu lân, các đèn lồng nan tre phết giấy bóng kính, làm theo các hình con cá, ông sao, bánh ú. Ngoài ra còn đèn xếp, đèn quả bưởi, đèn kéo quân… Rồi những con giống, làm bằng bột cắm lông gà nhuộm màu sặc sỡ, cũng là nét đặc thù của Tết Trung Thu của người Việt.
Đèn lồng, đèn cá chép, đèn kéo quân luôn làm những đứa trẻ thèm thuồngĐèn xếp, đèn quả bưởi, đèn kéo quân…Đèn hình con cua là ước ao của bọn trẻ cả tháng trời trước Tết trung thu. Đêm đến, chiếc đèn được thắp sáng lung linh bởi một chiếc nến nhỏ xinh bên trong, rạng ngời lên ánh mắt thích thú của trẻ nhỏ.
Có người bảo rằng cái ông tiến sĩ bằng giấy có bộ mặt non choẹt nhưng đáng yêu ấy chính là hình ảnh ông Trạng trẻ Nguyễn Hiền có thật trong lịch sử. Rồi hợp với thời thượng là những chiếc ôtô, tàu bay bên cạnh cái xe kéo cũng mới có từ khi Tây sang. Xem kỹ ảnh thấy rất nhiều đồ chơi loại này, nào là Hai bà cưỡi voi, vinh quy bái tổ, con lân, con phượng , Tôn Ngộ Không và rất nhiều nhân vật làm hình nhân.
Đủ các món đồ chơi được bày bán ở những khu chợ xưa: “ông tiến sĩ giấy”, đồ chơi hình xe hơi
Còn những lũ trẻ năng động nhất thì thích ở ngoài đường với cái đầu sư tử bồi bằng giấy. Chúng hợp thành những đoàn có trống, xèng xèng và thế nào cũng có một chú phỗng múa may làm vui. Chúng múa chơi đôi khi đòi những cửa hàng nơi chúng đến múa phải treo giải…
Đầu lân đủ cỡ, đủ loại, và hình dáng khác nhau. Múa cùng với lân là ông thổ địa bụng phệ phe phẩy cái quạt nan. Tiếng trống, tiếng hò reo, tiếng bước chân, và vũ điệu của sư tử, cứ rạo rực, cuốn hút không biết bao người. “Lòng vui sướng với đèn trong tay”, từng đoàn trẻ em đi theo chú lân, chú sư tử, tiếng trống rộn ràng để khi kết thúc đêm hội, ai cũng nuối tiếc và tự hỏi: “Bao giờ mới đến Trung Thu nữa nhỉ?”
Đoàn múa lân thô sơ nhưng không kém phần xôm tụ, náo nhiệt của Hà Nội xưa.Mua lân Tết Trung thu đầu thế kỉ 20
Cuối cùng là cái phút chờ đợi nhất, trong sự ấm cúng của gia đình xoay quanh nơi bày cỗ. Những món đồ ăn và đồ chơi được bày biện trong nhà hay ngoài trời phô bày sự chăm sóc của gia đình với con trẻ trong ngày Tết được chờ đợi nhất trong năm, lại vào lúc tiết trời đẹp nhất: gió mát trăng trong.
Trung thu là Tết đoàn viên. Một gia đình nhiều thế hệ ở Hà Nội quây quần bên mâm cỗ đón Rằm tháng tám
AI ĐÃ HỦY HOẠI CON ĐƯỜNG SẮT HUYỀN THOẠI KHÔNG CHỈ CỦA VIỆT NAM MÀ LÀ CỦA CHÂU Á VÀ CỦA THẾ GIỚI: CON ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM – ĐÀ LẠT?
Gọi là con đường huyền thoại vì đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa leo núi của Thế giới: một của Việt nam và một của Thụy sĩ. Con đường của VIệt nam kỳ vĩ hơn vì nó vừa dài lại có độ độ dốc lớn hơn con đường của Thụy sĩ.( VN dài 84 km, trong đó có tới 43 km đường răng cưa; Thụy sĩ chỉ có gần 25 km ở đoạn vượt qua đèo Furka trên dãy Alpes)
Con đường sắt răng cưa nối liền Phan Rang – Đà Lạt được bắt đầu thi công vào năm 1908
( có tàii liệu nói sớm hơn vài năm) theo lệnh của Toàn quyền Paul Doumer. Sau nhiều năm gian khổ xây dựng, đến năm 1932 chính thức hoạt động.
Con đường sắt này một thời là cầu nối hữu ích và thơ mộng giữ miền biển Nam Trung bộ với thành phố du lịch Dalat trên cao nguyên Lâm viên.
Nhưng vì “ chiến sự ác liệt” nên đến năm 1972 con đường sắt huyền thoại này phải ngừng hoạt động!?
Sau khi “giải phóng miền nam”, lẽ ra người ta phải khôi phục lại con đường sắt đặc biệt quý giá này, thì vào năm 1986 Liên hiệp Đường sắt Việt nam đã cho tháo ray và tà vẹt để phục vụ cho việc sửa chữa đường sắt Thống nhất. Những đoạn đường ray răng cưa hiếm hoi và giá trị, cùng những cái gì gọi là sắt đều bị người ta bán làm sắt vụn dần dần từ năm 1980- 2004 thì hết sạch ( cả cây cầu đường sắt Đ’ran đẹp như trong tranh cũng bị tháo ra bán nốt!?). Cứ vậy mà từ một con đường sắt dài gần 100km, nay chỉ còn lại một phần ngắn ngủn là hoạt động, đó là đoạn từ Dalat đi Trại mát.
Câu chuyện đau buồn này chưa dừng lại ở đây. Sau khi tuyến đường sắt gần như bị khai tử, thì ngay sau đó Cục Đường sắt VN đã hạ bút ký bán lại cho công ty DFB của Thuy sĩ 7 đấu máy hơi nước + một số toa hạng nhất với cái giá rẻ mạt là 650 000 USD? Người ta gọi đây là chiến dịch “Back To Switzerland “. Chiến dịch kết thúc, những người Thụy sĩ khôn ngoan đã mang món hàng quá hời này về nước tu sửa lại. Rồi từ đó những đầu máy hơi nước độc đáo và hiếm hoi này ngày ngày rong ruổi vuợt dãy Alpes, hót bạc đổ vào túi các ông chủ của công ty DFB!?( 60 USD/vé). Trong khi đó ở VN, tại ga DL, chì còn lại một đầu máy hơi nước để phơi nắng mưa cùng tháng năm và là chỗ để cho thiên hạ thoải mái leo trèo lên để chụp hình kỷ niệm? Mấy toa tàu hạng bét được kéo bằng đầu máy chạy điện, ngày ngày lọc xọc đưa khách du lịch chạy đi chạy lại từ Dalat đi Trại Mát!?
Chiếc đầu máy hơi nước của Nhật Bản chế tạo ( không phải của Thụy sĩ hay Đức chế tạo ) được ga Dalat trưng bày ,ngày tháng nằm phơi nắng mưa và là chỗ cho du khách thoải mái leo lên chụp hình kỷ niệm?Một đoạn đường sắt leo nú : Đường răng cưa nằm giữa 2 đường sắt bình thường ). Xây dựng đường sắt kiểu này rất khó khăn và tốn kém.Đại úy Baudesson và đoàn tùy tùng lên cao nguyên Lâm Viên khảo sát địa hình cho tuyến đường sắt Phan Rang – Dalat.Nắm 1908 tuyến đường sắt chính thức được khởi công xây dựng. Vì địa hình đồi núi phức tạp, lắm dốc cao, lại phải xây dựng thêm đường răng cưa ở giữa 2 đường trơn, nên việc xây dựng tuyến đường này cực kỳ khó khăn.Năm 1932 toàn tuyến đường sắt dài gần 100 km chính thức hoàn thành và được đưa vào sử dung. Đây là tuyến đường sắt răng cưa dài nhất và độc đáo nhất kg chỉ của Việt Nam mà là của Thế giới.Độ dốc của nhiều đoạn trong tuyến đường này rất lớn ,lên tới 12 phần trăm.( độ dốc tuyến đường ở đèo Furka bên Thụy sĩ tối đa là 11,8 phần trăm ) Để vượt được độ dốc này, người Pháp đã cho nhập loại đầu máy HG 4/4 của Thụy Sĩ là loại tuy cổ nhưng lại có công suất lớn.( bên Thụy Sĩ, để vượt đèo Furka, người ta chỉ cần dùng loại đầu máy HG thôi )Vua Bảo Đại và Toàn Quyền Pháp Rene Robin khánh thành tuyến xe lửaNhững chuyến tàu thời hoàng kim hối hả đi về giữa Dalat và Phan rangHành khách trên chuyến xe lửa rất độc đáo này. Việc đi lại giữa Dalat cùng vùng cao nguyên với miền biển rất thuận tiện.Tàu đang qua cầu Đ’ Ran.Rau quả từ Dalat được đưa lên tàu chuyển về miền biển; ngược lại hải sản, vật liệu xây dựng …được chuyển lên cao nguyên. Vậy mà vì “chiến sự ác liệt ” , tuyến đường sắt thơ mộng và hữu ích này đã bị khai tử!?Sau khi tuyến đường sắt ngưng hoạt động, các đầu máy quý giá này ( được chế tạo tại Thụy Sĩ ) bị bỏ lăn lóc quanh khu vực ga Dalat.Rồi bị người ta chuyển lại bán cho Thụy Sĩ ( nơi trước kia chế tạo ra những đầu máy này ) với cái giá rẻ mạt.Những đầu máy đã được tập kết về Thụy Sĩ và được tu sửa lại rất hoành tráng!
Rồi rong ruổi trên đất Thụy Sĩ!?Các chuyến xe độc đáo chuẩn bị vượt đèo Furka ở Thụy sĩ. Tiếc thật!Rồi ngày ngày có vài toa hạng bét chạy lọc cọc chở khách Tây ưa của hiếm và những hành khách hoài cổ Việt Nam chạy đi, chạy lại giữa Dalat và Trại Mát.Hình ảnh nhà ga xe lửa Dalat.. Đậy là một nhà ga được xếp vào loại đẹp nhất Đông Nam Á . Nhà ga được thiết kế giống với hình dáng ngọn núi Lang Bian trên cao nguyên Lâm Viên, đồng thời mang cốt cách giống như các nhà ga ở miền Nam nước Pháp. Đây là kiệt tác của hai KTS Moncet và Reveron. Nhà ga này được xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938 thì hoàn thành.
Bổ sung từ chính tác giả:
Kính gửi : Việt Nam xưa và nay.
Tôi là Nguyễn Bảo Châu, người viết bài : Đường sắt răng cưa Phan Rang – đà lạt. Bài viết của tôi đã được nhiều người quan tâm .Trang ” Việt Nam xưa và nay ” cũng đưa lên trang wed .Tôi rất vui mừng . Nhưng thưa quý trang, trong bài viết của tôi có chút ít nhầm lẫn vế chiếc đầu máy hiện đang được đặt ở ga Dalat. Tôi nghĩ rằng ( nhiều người khác cũng vậy ) chiếc đầu máy đó là đầu máy răng cưa đươc chế tạo ở Thụy sĩ hoặc Đức mà ga Dalat để lại sau vụ bán mua giữa VN và Thụy Sỹ. Hóa ra lại không phải thế .Sau khi bán 7 đầu máy hơi nước leo núi quý giá cho Thụy Sỹ, đường sắt VN đã thế vào đó một đàu máy mua từ Trung Quốc có nguồn gốc ở Nhật Bản. Việc làm mập mờ này khiến bao người lầm tưởng là ĐSVN vẫn giữ lại được một đầu máy leo núi của TS?
Hội chợ Thuộc địa Paris 1931 kéo dài trong 6 tháng, với quy mô quá sức to lớn, đã thu hút trên 33 triệu khách trên thế giới viếng thăm.
Đoàn cải lương Phước Cương ở hội chợ thuộc địa Bois de Vicennes, Paris 1931, trong đó cô đào chính Năm Phỉ, nghệ sĩ Bảy Nhiêu, Tám Danh diễn trong vỡ “Sĩ vân công chúa”, dựa trên truyện “Tristan et Isolde”
Các nghệ sĩ đoàn cải lương Phước Cương của xứ thuộc địa Nam Kỳ được đi thử máy bay lần đầu tiên ở Hội chợ Thuộc địa 1931, tổ chức tại Bois de Vincennes, Paris.
Người đứng trên máy bay là Cô Năm Phỉ tên thật là Lê-Thị-Phỉ, người đóng vai Sĩ-Vân công chúa, cặp đôi với ông hoàng tình tứ, do Cô Bảy Phùng Há đóng, khoảng 1931 (theo Hồi ký “50 Năm Mê Hát- Năm mươi năm cải lương” của cụ Vương Hồng Sển).
Chuyến bay đầu tiên của các nghệ sĩ Nam Kỳ tại Triển lãm thuộc địa 1931 – Baptême de l’air des danseuses cochinchinoises lors de l’exposition coloniale 1931Đoàn nghệ sĩ Nam Kỳ tại Hội chợ Thuộc địa Paris 1931Các nghệ sĩ đoàn cải lương Phước Cương của xứ thuộc địa Nam Kỳ được đi thử máy bay lần đầu tiên ở Hội chợ Thuộc địa 1931, tổ chức tại Bois de Vincennes, Paris.diễn viên bên bìa phải có lẽ là của Hoàng gia Campuchia nhưng trên postcard đã chú thích là Diễn viên cung đình HuếVua Bảo Đại dự khai mạc Hội chợ Thuộc địa Paris 1931 Le jeune empereur Bao Dai, accompagné par le Gouverneur Général Pasquier, lors de l’inauguration, le 6 mai 1931. Nhà vua trẻ Bảo Đại, được Toàn quyền Pasquier tháp tùng, trong ngày khai mạc Hội chợ Thuộc địa Paris 1931. Trong ảnh là Tòa nhà “Bảo tàng các Thuộc địa” trong khu vực hội chợ.Thợ lấy ráy tai – postcard vẽ tay bằng mực tàu, dịp Triển Lãm Thuộc Địa 1931.
Quách Đàm (1863-1927) khởi nghiệp từ nghề mua bán ve chai, sau đó kèm thêm việc mua bán da trâu, vi cá và bong bóng cá. Khi đã có một số vốn, Quách Đàm bước vào nghề mua bán lúa gạo và trở nên giàu có. Ông luôn luôn làm việc bằng sức lao động chân chính, và ông đã tạo nên Thông Hiệp, một cơ sở kinh doanh danh tiếng ở khu vực Chợ Lớn ngày ấy. là một thương gia giàu có, và là người có công xây dựng nên chợ Bình Tây hay “Chợ Lớn Mới”, sau khi Chợ Cũ (ở vị trí nay là Bưu điện quận 5) bị thiêu tàn trong một vụ cháy. Chợ Bình Tây được khởi công từ năm 1928 và hoàn thành năm 1930.
Nguyên thủy, đây là một vùng đất ruộng, được Quách Đàm mua lại, chuyển đất ruộng thành đất thổ trạch, rồi tự mình xuất tiền để xây dựng một khu chợ đồ sộ, được người dân quen gọi là chợ Quách Đàm.
Chợ được xây cất bằng xi măng cốt thép theo kỹ thuật phương Tây, nhưng lại mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc. Tháp giữa vươn cao có 4 mặt đồng hồ, có “lưỡng long chầu châu”, 4 góc có 4 chòi nhỏ, toàn bộ mái chợ lợp bằng ngói âm dương theo kiểu chồng lớp để tạo sự thông thoáng. Riêng mái ở các góc có nét uốn lượn theo kiểu chùa chiền phương Đông. Chính giữa chợ có khoảng sân trời rộng rãi, thoáng mát.
Bên cạnh khu chợ, ông Quách Đàm cũng cho xây dựng khu phố nhà lầu theo kiểu phố buôn bán và vận động các quan chức cao cấp của Nam Kỳ, kể cả Thống đốc Cognac để dời Chợ Lớn về đây. Bên trong chợ, ông cũng cho đặt tượng đồng của mình nơi cửa chính. Tượng Đàm mặc triều phục Mãn Thanh, nón nhỏ, áo ngắn phủ trên một chiếc áo thụng, đầu để bím, tay cầm một bản đồ (ảnh đầu tiên) dưới bệ đá trắng có mấy con giao long bằng đồng phun vòi nước bạc.
Tuy nhiên, thời kỳ đầu khi chợ mới được xây dựng, dù đồ sộ, nhưng xung quanh dân cư còn thưa thớt, hơn nữa, các thương gia người Hoa buôn bán tại Chợ Lớn Cũ vốn đã yên nơi yên chỗ cũng không muốn dời phố mới xa xôi thêm hao tốn, vì vậy Chợ Quách Đàm chưa sầm uất như bây giờ.
1927 Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên… Khách đi đường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy “ngẫu” (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón.
Những hình ảnh hiếm có về Lễ mừng thọ 40 tuổi (Tứ Tuần Đại Khánh) của vua Khải Ðịnh khoảng vào tháng 9-10 năm 1924
Nhờ những hình ảnh nầy mà chúng ta thấy được cố đô Huế vào thời xa xưa, lúc chưa bị chiến tranh tàn phá. Ngày nay, dù cho UNESCO có giúp đỡ Việt Nam để xây dựng lại những cung điện xưa (Hoàng Thành Huế) nhưng chỉ sẽ là những tòa nhà trống trải vô hồn.
Toàn cảnh cố đô Huế khi xưaBên dòng sông HươngQuan cảnh sau cổng thànhHoàng thành Huế nhìn từ trên caoMột cổng vào cung điệnThêm một cổng vào cung điệnMột lối đi trong điện Cần ChánhNơi trưng bày những lễ vật của quan kháchNhững lễ vậtNhững lễ vậtNhững lễ vậtNhững lễ vậtÐoàn hát Nam-ÐịnhNhóm nhạc sĩ của một dân tộc thiểu sốÐoàn vũ công miền NamÐoàn vũ công của Vinh và Thanh HóaPhía bên trong cửa Ngọ MônBá quan lạy khi vào tới điện Cần ChánhBá quan lạy khi vào tới điện Cần ChánhBá quan lạy khi vào tới điện Thái HòaVua Khải Ðịnh đang dùng cơm trưa ở điện Cần ChánhVua đãi cơm chiều cho bá quan ở điện Cần ChánhÐiện Thái HòaThuyền của Thái Hậu và các bà phi coi đua thuyềnThái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Ðại trong tương lai) và một viên quan
Ngày xưa dưới thời phong kiến, vấn đề đưa tin là chỉ có trong lãnh vực triều đình mà thôi. Dân chúng thì chỉ có thể chờ cơ hội để nhờ người này hay người nọ mang thư giùm. Người Pháp có công trong việc tạo ra một hệ thống đưa tin cho toàn dân.
Nghề đưa thư vào thời này hơi nguy hiểm vì lãnh thổ Việt Nam còn nhiều rừng rú, nơi ẩn náu nhiều thú dữ, nhất là cọp. Có rất nhiều người phát thư bị cọp vật trong khi hành nghề.
Một đoàn xe chở thơ Saigon – CanThoXe phát thơ Saigon Tay NinhÐoàn vận tải thơ bằng chân!Nghỉ ngơiCông tác chuẩn bị trước khi lên đường phát thưCọp mò vào làng dânBẫy cọpMột con cọp bị bắt (1937)Một con cọp bị giếtNhiều khi phải đi bằng voi để tránh gặp thú dữ
Chổ trú đêm trong rừng cho mấy người phát thơ
HinhanhVietNam.com theo free.fr