Category: Chứng nhân lịch sử

  • Cụ Rùa Hồ Gươm bao nhiêu tuổi?

    Cụ Rùa Hồ Gươm bao nhiêu tuổi?

    Rùa Hồ Gươm hay còn được gọi là Cụ Rùa là con rùa đã từng sống tại Hồ Gươm, chết vào ngày 19 tháng 1 năm 2016

    Có thông tin cho rằng, cụ Rùa Hồ Gươm đã 700 tuổi, nhưng kết quả phân tích ADN lại cho thấy, cụ Rùa Hồ Gươm mới chỉ hơn 100 năm.

    Khoảng 16h30 ngày 19/1, các lực lượng quản lý hồ Gươm đã phát hiện cụ rùa hồ Gươm chết và nổi ở trong hồ gần khu vực đường Lê Thái Tổ.

    Đây là một tin rất đáng buồn đối với nhiều người dân Thủ đô nói riêng và người dân cả nước nói chung, bởi hình ảnh “cụ rùa” và Hồ Gươm từ lâu nay vẫn gắn bó với những hoài niệm về một Hà Nội giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, xã hội.

    Ngay khi phát hiện, các ngành chức năng của thành phố Hà Nội đã mời giáo sư Hà Đình Đức tới để cùng các ngành chức năng của thành phố bàn giải pháp.

    PGS.TS Hà Đình Đức, người nhiều năm nghiên cứu về rùa Hồ Gươm cho biết, cá thể rùa duy nhất tại Hồ Gươm là loài đặc biệt quý hiếm, trên thế giới chỉ có 4 cá thể, trong đó 1 ở Hồ Gươm, 1 ở Đồng Mô (thị xã Sơn Tây, Hà Nội) và 2 cá thể ở thượng Hải (Trung Quốc).

    Cụ Rùa Hồ Gươm. (Ảnh: Tiền Phong)
    Cụ Rùa Hồ Gươm. (Ảnh: Tiền Phong)

    Được biết, lần nổi lên gần đây nhất của cụ Rùa Hồ Gươm là vào trưa ngày 21/12/2015. Khi đó, “cụ” rùa nổi lên ở gần khu vực đối diện đường Lê Thái Tổ (Hoàn Kiếm – Hà Nội). Ở lần đó, cụ rùa nổi trong hơn hai tiếng từ 10h sáng đến hơn 12h. Ở lần nổi lên cuối cùng ngày, “cụ” xuất hiện với mai bóng nhẫy, trơn mượt.

    Vào năm 2011, cụ Rùa có cân nặng 169kg, chiều dài của mai Rùa 1,3m. Cũng trong năm này, Hà Nội đã đưa cụ Rùa lên khám bệnh và chữa trị trong hơn 3 tháng.

    Trước đó, báo giới trong nước đã từng đưa thông tin về tuổi của cụ Rùa. Tuy nhiên, các thông tin chưa nhất quán. Trong đó, có thông tin nói rằng cụ Rùa đã 700 tuổi song cũng lại có thông tin cho rằng cụ Rùa chỉ mới hơn 100 tuổi.

    Trong bài viết có tựa đề ““Giáo sư rùa” Hà Đình Đức” đăng trên tờ Người Lao Động có viết: “Theo nghiên cứu của PGS Hà Đình Đức, cụ Rùa Hồ Gươm ước đã 700 tuổi, nặng chừng hai tạ”.

    Thế nhưng, tháng 4/2011, hội đồng chữa trị cho cụ Rùa Hồ Gươm đã tiến hành phân tích ADN cho cụ Rùa và khẳng định, Rùa Hồ Gươm là rùa cái, tuổi thọ có thể hơn 100 năm.

    TS Bùi Quang Tề (trưởng nhóm chẩn đoán và chữa trị Rùa Hồ Gươm) thông tin trên tờ Tuổi Trẻ sau khi tiến hành phân tích ADN cho cụ Rùa như sau:

    “Qua lấy mẫu phân tích, có thể khẳng định Rùa Hồ Gươm là một loài mới khác hoàn toàn với loài rùa Thượng Hải, đồng thời cũng không cùng loài với rùa Đồng Mô”.

    Các nhà khoa học của Viện Công nghệ Sinh học khẳng định trên tờ Tiền Phong: “Cụ Rùa hiện sống tại Hồ Hoàn Kiếm là cùng loài với rùa thu thập tại Quảng Phú (Thanh Hóa), Suối Hai, Hương Ký (Hà Nội), đây là loại rùa lớn mai mềm nước ngọt đặc hữu của Việt Nam.

    Theo Phununews.vn

    Truyền thuyết “Trả Gươm”

    Truyện xưa kể rằng, khi dấy binh khởi nghĩa, Lê Lợi đã được Đức Long Quân cho mượn thanh Bảo Kiếm. Sau khi đánh đuổi hết quân xâm lược, giành lại giang sơn xã tắc, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế.

    Truyền thuyết "Trả Gươm"

    Một hôm nhà vua ngự trên thuyền rồng cùng bá quan văn võ du ngoạn  ngắm cảnh vật bên hồ Lục Thủy giữa kinh thành Thăng Long. Bỗng nhiên thần Kim Quy xuất hiện bơi đến trước mũi thuyền và tâu với nhà vua rằng:

    – Việc lớn đã xong xin Người hãy hoàn lại thanh Bảo Kiếm cho Đức Long Quân.

    Thanh Thần Kiếm vẫn bên mình nhà vua từ ngày dựng cờ khởi nghĩa bỗng rùng rùng rồi vút bay khỏi vỏ hướng đến  Rùa Vàng. Nhanh như chớp, thần Kim Quy đớp ngang lưỡi kiếm và lặn sâu xuống hồ. Từ đó một vệt sáng xanh ngắt bay vút thẳng lên trời. Khi đó thuyền của bá quan văn võ cũng vừa tới. Nhà vua liền phán:

    – Khi ta dựng cờ khởi nghĩa Đức Long Quân đã cho ta mượn  thanh Bảo Kiếm, nay việc lớn đã xong Người sai phái sứ thần đến đòi  ta đã trao trả lại.

    Kể từ đó hồ Lục Thủy đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (hồ Trả Gươm) hay Hồ Gươm.

  • Câu chuyện lập nghiệp của ông chủ Rạp Hưng Đạo xưa

    Câu chuyện lập nghiệp của ông chủ Rạp Hưng Đạo xưa

    3 Ngày Tết hay đi coi hát cải lương ở đây! Nhưng Bạn có biết :
    Rạp Hưng Đạo ngày xưa của ai không?

    Năm 1940 tại góc đường Général Marchand và Gallieni (Nguyễn Cư Trinh và Trần Hưng Đạo ngày nay) thường ngày vẫn có một cậu con trai khoảng 18 – 20 tuổi ngồi cặm cụi sửa vá xe đạp bên vệ đường. Thời đó người dân chính gốc thành phố còn thất nghiệp dài dài, nói chi đến những dân nhập cư từ tỉnh thành xa, do đó người ta xem việc một thanh niên sửa xe như vậy là chuyện bình thường.

    Những người lui tới con đường đó, đặc biệt là những khách hàng từng đôi ba lần xe đến sửa xe ấy là một chàng trai hiền hậu, dễ thương, lại chăm chỉ, cẩn thận. Xe hư đâu sửa đó, đảm bảo chất lượng, tiền công vừa phải, đôi khi với những khách hàng già cậu ta còn tự nguyện sửa miễn phí “để làm quen”. Lâu dần, khách hàng càng lúc càng đông, thậm chí có người bị hư xe ở xa cũng ráng dẫn bộ tới, để cậu sửa. Chàng trai ấy tên là Niệm.

    Một năm sau ngày ra nghề, người ta thấy chỗ bức tường phía sau lưng anh thợ sửa xe ngồi, có treo lủng lẳng vài chiếc vỏ, ruột xe đạp, cùng với một ít những phụ tùng khác. Anh giải thích “Để khi nào khách có cần thì mình thay cho tiện”. Thời đó không có chợ phụ tùng hoặc các loại phụ tùng xe được bày bán khắp nơi như ngày nay, cho nên việc phục vụ linh hoạt của cậu Niệm được bà con ủng hộ. Hai năm sau, khách hàng nhìn thấy có thêm một hai chiếc xe đạp lắp ráp hoàn chỉnh dựng ở đó. Cậu Niệm lại giới thiệu “Nhân tiện ráp sẵn, nếu bà con nào có cần thì mình nhường lại, giá phải chăng”. Tất nhiên, bởi sẵn có uy tín hàng của cậu ta ráp đến đâu bán được đến đó.

    Sau khi Nhật đảo chính Pháp, trong lúc Sài Gòn đang hoảng loạn vì những cuộc dội bom của phi cơ đồng minh xuống thành phố, dân chúng lo chạy tránh bom, thì góc đường đó, chàng trai sửa xe vẫn cứ bám trụ với “cơ ngơi của mình, gồm 4 chiếc xe đạp vừa mới ráp, cộng với một thùng phụ tùng mới. Với cậu giữa cái chết do bom đạm và chết đói, cậu ta sợ chết đói hơn, vả lại trong đầu cậu trai nghèo này, chừng như còn nuôi một hoài bão.

    Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, cũng là lúc người ta ngạc nhiên khi thấy chàng trai đó đứng ra thuê hẳn một góc nhà (chỗ căn phố mà suốt mấy năm qua cậu ta vẫn ngồi phía trước hiên nhà để hành nghề) và khai trương bảng hiệu: “Nguyễn Thành Niệm, sửa xe và bán phụ tùng xe đạp”. Thì ra, do khéo dành dụm trong nhiều năm qua, đến lúc đó cậu ta đã có được số vốn nho nhỏ, đủ để “dựng tiệm”. Cậu tâm sự với những người quen biết “Cái nghèo nó làm cho mình phải bỏ dở chuyện học hành, mà không học thì khó bề lập thân. Bây giờ chỉ có một cách là phải chí thú làm ăn phải đi lên con đường thương mại….”. 5 năm sau, đầu thập niên 50, cả một dãy phố từ đầu đường Nguyễn Cư Trinh chạy dọc theo đường Trần Hưng Đạo, đến gần đường hẻm Nguyễn Văn Dụng, đã quy về một mối, do một người làm chủ: Nguyễn Thành Niệm.

    Cậu ta trúng nghề phụ tùng xe đạp là chủ yếu, nhưng cũng phải kể đến yếu tố cần kiệm và óc nhạy bén với thị trường. Chỉ trong vòng 10 năm, từ một chàng sửa xe đạp tầm thường, Nguyễn Thành Niệm tậu được đến gần 30 căn phố mặt tiền đường Gallieni (Trần Hưng Đaọ). Có người nói, sở dĩ Nguyễn Thành Niệm mua được nhiều nhà như thế là bởi vì thời đó mọi người vừa trải qua một giai đoạn khủng hoảng do cuộc chiến tranh, bị lung lạc tinh thần, muốn bán rẻ nhà cửa để hồi hương lập nghiệp, nên giá nhà rẻ, và Niệm đã chộp đúng thời cơ.

    Con đường “lập thân” của Nguyễn Thành Niệm đã mở rộng. Anh ta chuyển sang kinh đoanh đa dạng hơn, gồm cả phụ tùng xe gắn máy, xe hơi, máy móc cơ giới nói chung. Và thế là một công ty nhập khẩu phụ tùng xe, máy được hình thành. Công ty Indo – Comptoir của Nguyễn Thành Niệm cuối thập niên 50 là một trong 10 công ty xuất nhập khẩu phụ tùng xe cơ giới lớn nhất Sài Gòn có chi nhánh ở khắp miền Nam, vươn tới Nam Vang, Vientian, Pakse (Lào). Nguyễn Thành Niệm trở thành một tỷ phú.

    Đầu thập niên 60, tại dãy phố góc đường Nguyễn Cư Trinh – Trần Hưng Đạo, cạnh trụ sở của công ty Nguyễn Thành Niệm, người ta thấy mọc lên một toà nhà đồ sộ với chữ hiệu trên mặt tiền rất nổi: Rạp hát Hưng Đạo. Thì ra, đúng nơi mấy chục năm trước Niệm ngồi sửa se đạp, giờ đã được dựng lên một rạp hát lớn nhất thành phố, lại do chính ông làm chủ. Có lần Nguyễn Thành Niệm đã nói với bạn bè “Cuộc đời cũng giống như một sân khấu, mình cố làm sao cho sân khấu lộng lẫy thì càng hay…

    Câu chuyện lập nghiệp của ông chủ Rạp Hưng Đạo xưa
    Thượng Hồng
    Theo Dân Sài Gòn xưa.

  • Luật pháp ngày xưa

    Luật pháp ngày xưa

    Luật pháp nước ta ngày xưa rất nghiêm, tội nhân có thể bị trừng phạt bằng 5 cách:

    1-Suy (đánh bằng roi), 2-Trượng (đánh bằng gậy), 3-Ðồ (bắt đi làm việc công) 4- Lưu (đầy đi xa), 5- Tử (chết)

    Một toà án ngày xưa
    Một toà án ngày xưa
    Hỏi cung
    Hỏi cung
    thú tội
    thú tội
    Tội nhân nghe tuyên án
    Tội nhân nghe tuyên án
    Một ông quan đang xử
    Một ông quan đang xử
    ăn cắp bị phạt đòn
    ăn cắp bị phạt đòn
    ăn cắp bị phạt đòn
    ăn cắp bị phạt đòn
    ăn trộm bị phạt đòn (vở kịch)
    ăn trộm bị phạt đòn (vở kịch)
    tù nhân bị đi đày
    tù nhân bị đi đày
    tội tử hình
    tội tử hình
  • Nghệ sĩ cải lương tại Hội chợ Thuộc địa 1931

    Nghệ sĩ cải lương tại Hội chợ Thuộc địa 1931

    Hội chợ Thuộc địa Paris 1931 kéo dài trong 6 tháng, với quy mô quá sức to lớn, đã thu hút trên 33 triệu khách trên thế giới viếng thăm.

    Đoàn cải lương Phước Cương ở hội chợ thuộc địa Bois de Vicennes, Paris 1931, trong đó cô đào chính Năm Phỉ, nghệ sĩ Bảy Nhiêu, Tám Danh diễn trong vỡ “Sĩ vân công chúa”, dựa trên truyện “Tristan et Isolde”

    Các nghệ sĩ đoàn cải lương Phước Cương của xứ thuộc địa Nam Kỳ được đi thử máy bay lần đầu tiên ở Hội chợ Thuộc địa 1931, tổ chức tại Bois de Vincennes, Paris.
    Các nghệ sĩ đoàn cải lương Phước Cương của xứ thuộc địa Nam Kỳ được đi thử máy bay lần đầu tiên ở Hội chợ Thuộc địa 1931, tổ chức tại Bois de Vincennes, Paris.

    Người đứng trên máy bay là Cô Năm Phỉ tên thật là Lê-Thị-Phỉ, người đóng vai Sĩ-Vân công chúa, cặp đôi với ông hoàng tình tứ, do Cô Bảy Phùng Há đóng, khoảng 1931 (theo Hồi ký “50 Năm Mê Hát- Năm mươi năm cải lương” của cụ Vương Hồng Sển). 

    Chuyến bay đầu tiên của các nghệ sĩ Nam Kỳ tại Triển lãm thuộc địa 1931 - Baptême de l'air des danseuses cochinchinoises lors de l'exposition coloniale 1931
    Chuyến bay đầu tiên của các nghệ sĩ Nam Kỳ tại Triển lãm thuộc địa 1931 – Baptême de l’air des danseuses cochinchinoises lors de l’exposition coloniale 1931
    Đoàn nghệ sĩ Nam Kỳ tại Hội chợ Thuộc địa Paris 1931
    Đoàn nghệ sĩ Nam Kỳ tại Hội chợ Thuộc địa Paris 1931
    Các nghệ sĩ đoàn cải lương Phước Cương của xứ thuộc địa Nam Kỳ được đi thử máy bay lần đầu tiên ở Hội chợ Thuộc địa 1931, tổ chức tại Bois de Vincennes, Paris.
    Các nghệ sĩ đoàn cải lương Phước Cương của xứ thuộc địa Nam Kỳ được đi thử máy bay lần đầu tiên ở Hội chợ Thuộc địa 1931, tổ chức tại Bois de Vincennes, Paris.
    diễn viên bên bìa phải có lẽ là của Hoàng gia Campuchia nhưng trên postcard đã chú thích là Diễn viên cung đình Huế
    diễn viên bên bìa phải có lẽ là của Hoàng gia Campuchia nhưng trên postcard đã chú thích là Diễn viên cung đình Huế
    Vua Bảo Đại dự khai mạc Hội chợ Thuộc địa Paris 1931  Le jeune empereur Bao Dai, accompagné par le Gouverneur Général Pasquier, lors de l'inauguration, le 6 mai 1931. Nhà vua trẻ Bảo Đại, được Toàn quyền Pasquier tháp tùng, trong ngày khai mạc Hội chợ Thuộc địa Paris 1931. Trong ảnh là Tòa nhà "Bảo tàng các Thuộc địa" trong khu vực hội chợ.
    Vua Bảo Đại dự khai mạc Hội chợ Thuộc địa Paris 1931
    Le jeune empereur Bao Dai, accompagné par le Gouverneur Général Pasquier, lors de l’inauguration, le 6 mai 1931. Nhà vua trẻ Bảo Đại, được Toàn quyền Pasquier tháp tùng, trong ngày khai mạc Hội chợ Thuộc địa Paris 1931. Trong ảnh là Tòa nhà “Bảo tàng các Thuộc địa” trong khu vực hội chợ.
    Thợ lấy ráy tai - postcard vẽ tay bằng mực tàu, dịp Triển Lãm Thuộc Địa 1931.
    Thợ lấy ráy tai – postcard vẽ tay bằng mực tàu, dịp Triển Lãm Thuộc Địa 1931.

     

  • Những người ăn mày ở đất Bắc (thời Pháp thuộc)

    Những người ăn mày ở đất Bắc (thời Pháp thuộc)

    Ăn mày thời xưa

    Những người ăn mày ở đất Bắc (thời Pháp thuộc)

     

    Bốn mẹ con người ăn mày mù lòa
    Bốn mẹ con người ăn mày mù lòa

     

    Các bạn đọc gần xa có các bức ảnh về những người cơ cực thời xưa, mang giá trị lịch sử và văn hóa,.. vui lòng gửi ảnh cho HinhanhVietNam.com hoàn thiện bài viết này nhé!

    Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, từ đời Lý, nhiều năm mưa to, bão lớn khiến ruộng đồng ngập hết. Có năm, nước dâng cao tràn cả vào cửa Đại Hưng (nay là khu vực Cửa Nam) của thành Thăng Long. Nước ngập, lúa và hoa màu không sống nổi, dân đói ăn tràn về Thăng Long và triều đình phải mở kho lương phát cứu đói nhưng cũng không xuể. Đến đời Trần, trước thảm họa do thiên nhiên gây ra, nhà vua đã cho đắp đê quai vạc từ đầu nguồn sông Hồng ra đến cửa biển. Nhưng vì đê thấp, nước lại cao nên lũ lụt vẫn xảy ra.

    Để ngăn đê vỡ, lũ tràn, các vua triều Nguyễn bỏ rất nhiều tiền bạc, công sức để tôn đê lên cao hơn nhưng vẫn không thể trấn trị được thủy thần. Chỉ tính riêng tỉnh Hưng Yên, từ năm 1863 đến 1886, đê Văn Giang vỡ tới 18 lần. Vỡ đê, người dân chỉ còn cách đi xin ăn nên có câu thành ngữ “Oai oái như phủ Khoái xin ăn”. Ca dao tục ngữ Hà Nội xưa cũng có câu: “Đông thành là mẹ, là cha/Đói cơm rách áo thì ra Đông thành”.Chợ Đông thành (tương ứng với các phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Đào… bây giờ) là chợ lớn nhất Thăng Long có từ thời Hậu Lê. Chợ sầm uất, bán buôn đủ các mặt hàng. Ăn mày đến đây luôn được người bán hàng, người đi chợ cho vài chinh, gạo hay cơm. Không chỉ ở chợ Đông thành, Thăng Long còn có 8 chợ lớn khác nằm rải rác ở các phường. Trong “Vũ Trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ viết: “Vào những năm lũ lụt hay mất mùa, dân đói ăn từ các nơi đổ về chợ xin ăn, trông rách rưới và thương tâm, người đi chợ không nỡ ngoảnh mặt đi qua”. Điều đó cũng cho thấy tấm lòng “lá lành đùm lá rách” của người dân đất Kẻ Chợ.

    Đến đời vua Tự Đức, ăn mày dồn về Hà Nội nhiều hơn. Ngoài nguyên nhân mất mùa, còn có nguyên nhân nữa là xã hội giai đoạn này phân hóa ngày càng sâu sắc, dân chúng ở quê đói kém, nợ nần buộc phải bán tư điền cho chức sắc trong làng. Không còn đất canh tác, không có nghề thủ công, họ chỉ còn cách đi ăn mày. Phillip Papine, tác giả của cuốn “Lịch sử Hà Nội” đã viết: “Không còn đất, một bộ phận nông dân trở thành kẻ làm thuê và lang thang ra thành phố xin ăn”.

    Chiếm được Nam kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh chiếm Bắc kỳ. Năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, chiếm được thành rồi lại phải rút, nhưng họ cũng buộc vua Tự Đức phải ký hiệp ước cấp đất cho Pháp mở lãnh sự ở khu Đồn Thủy (nay là khu vực phố Phạm Ngũ Lão). Lại thêm quân Cờ đen quấy phá nên nông dân một số tỉnh bỏ ruộng, buôn bán cũng bị đình trệ làm kinh tế sa sút, nạn đói diễn ra ở nhiều nơi. Trong thư gửi cho Chính phủ Pháp ngày 30-4-1876, Kergaradec, Lãnh sự của khu nhượng địa Đồn Thủy viết: “Cứ 5 ngày một lần, ăn mày ở thành phố và các vùng lân cận, một đội quân thực sự chen nhau ở Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia). Người ta cho từng người vào một và nhận được nửa cân gạo. Sau đó, cả 9 cửa cùng mở để mọi người đi ra. Tuy nhiên, chút gạo bố thí nhỏ nhoi đó vừa đủ một ngày nhưng người ta cũng chỉ phát cho người già, trẻ em, phụ nữ và người tàn tật. Những người đàn ông có vẻ kiếm sống được đều bị đám lính xua đuổi rất kiên quyết. Nhưng lần phát chẩn cuối cùng vẫn còn 22.000 người tới nhận”.

    Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, sau đó tiến hành bình định các tỉnh trung du và miền núi Bắc kỳ, trấn áp phong trào Cần vương. Chiến trận diễn ra ở nhiều tỉnh làm dân hoảng loạn bỏ quê ra Hà Nội. Trong hồi ký “Ở Bắc kỳ – Ghi chép và kỷ niệm” (Au Tonkin – Notes et souvenirs, xuất bản 1925), Bonnal (Công sứ Hà Nội 1883-1885) viết: “Hà Nội bị xâm chiếm bởi hàng nghìn người từ các tỉnh lân cận đổ về. Những toán đàn bà, trẻ con rách rưới bám theo binh lính của chúng ta khi đi dạo trong những phố buôn bán, nơi rất khó vạch ra lối đi ngay khi vung gậy xua đuổi. Quang cảnh của những sự khốn cùng ấy mới chỉ là đáng buồn nhưng khi gặp phải một toán quân hủi đến cản đường trong phố thì một người Âu kém tế nhị nhất cũng phải tháo chạy càng nhanh càng tốt. Người ta nhìn thấy họ nằm lăn ra trên những manh chiếu rách, chân tay vặn vẹo những tư thế kỳ cục, không còn giọng nói để cất lên lời xin bố thí”.

    Đầu thế kỷ XX, ăn mày ngồi la liệt, bày biện đủ thứ hình ảnh đau khổ kêu khóc có bài ở Ô Cầu Dền vì Sở Cẩm không cho ăn mày vào nội thành. Tuy nhiên cũng có người trốn vào nhưng lại bị cảnh sát bắt đem ra cửa ô hay xua đi. Hà Nội phát triển về phía tây và phía nam, chính quyền không ngăn nổi ăn mày. Những năm 1920 đã xuất hiện “Ngõ ăn mày” ở gần Ô Chợ Dừa (nay là ngõ Đoàn Kết phố Khâm Thiên). Họ dựng lều sơ sài bên những vùng lầy lội và hồ ao đầy cỏ dại, ban ngày kéo nhau đi ăn xin, tối về ngủ. Năm 1945, lũ lụt, mất mùa, chiến tranh, quân Nhật bắt phá lúa trồng đay đã khiến dân chết đầy đường Hà Nội. Các hội thiện cùng chính quyền phải đi thu gom xác chết mang chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện (nay là khu vực Nhà máy sợi Hà Nội ở phố Minh Khai).

    ….
    Nguồn: Facebook, báo Hà Nội mới.
  • Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906

    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906

    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906

    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ do ông Viang (người đứng một mình hàng trên cùng) làm làm trưởng đoàn, tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906
    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ do ông Viang (người đứng một mình hàng trên cùng) làm làm trưởng đoàn, tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906
    Hội chợ triển lãm Thuộc địa Marseille 1906 - Ban nhạc của Nhà nghỉ Thượng khách xứ Nam Kỳ.
    Hội chợ triển lãm Thuộc địa Marseille 1906 – Ban nhạc của Nhà nghỉ Thượng khách xứ Nam Kỳ.
    Người đứng giữa chống nạnh chính là ông Nguyễn Tống Triều. Người mặc áo đen bên trái là trưởng đoàn, ông 'Viang'
    Người đứng giữa chống nạnh chính là ông Nguyễn Tống Triều. Người mặc áo đen bên trái là trưởng đoàn, ông ‘Viang’
    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tham dự Hội chợ Marseille 190
    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tham dự Hội chợ Marseille 190
    L'INDOCHINE 1906 - Les acteurs, actrices et figurants du théâtre indo-chinois à l'Exposition de Marseille
    L’INDOCHINE 1906 – Les acteurs, actrices et figurants du théâtre indo-chinois à l’Exposition de Marseille
    Gánh hát bội của xứ Đông Dương
    Gánh hát bội của xứ Đông Dương
    L'INDOCHINE 1906 - Le Jeune Li-Nhan
    L’INDOCHINE 1906 – Le Jeune Li-Nhan
    Exposition Coloniale Paris 1931
    Exposition Coloniale Paris 1931
    Nhóm múa Bắc Kỳ tại Đấu xảo Thuộc địa Quốc tế Paris 1931  1931 Groupe de danseurs (Tonkin) à Exposition coloniale internationale de Paris (1931). Photo by Paul Pivot
    Nhóm múa Bắc Kỳ tại Đấu xảo Thuộc địa Quốc tế Paris 1931
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin) à Exposition coloniale internationale de Paris (1931). Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)  Danse se faisant également pendant une procession rituelle pour obtenir la pluie ou tout autre bienfait. Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)
    Danse se faisant également pendant une procession rituelle pour obtenir la pluie ou tout autre bienfait. Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)  Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)
    Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)  Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)
    Photo by Paul Pivot
     Joueurs de flûte traversière - Nhạc công thổi sáo
    Joueurs de flûte traversière – Nhạc công thổi sáo
    Joueurs de vièles Dàn Nhi (vièles à deux cordes) - Nhạc công chơi đàn nhị
    Joueurs de vièles Dàn Nhi (vièles à deux cordes) – Nhạc công chơi đàn nhị
    Ban nhạc bát âm: 4 cây sáo trúc, 2 cây đàn nhị, một trống cơm và một nhạc cụ gõ tên là "xênh tiền"
    Ban nhạc bát âm: 4 cây sáo trúc, 2 cây đàn nhị, một trống cơm và một nhạc cụ gõ tên là “xênh tiền”
    Người chơi trống tiểu và trống trung  Joueur de tambour Tièu Cô (à gauche) et de tambour Trong Com (à droite) (petit et moyen tambours).Người chơi trống tiểu và trống trung  Joueur de tambour Tièu Cô (à gauche) et de tambour Trong Com (à droite) (petit et moyen tambours).
    Người chơi trống tiểu và trống trung
    Joueur de tambour Tièu Cô (à gauche) et de tambour Trong Com (à droite) (petit et moyen tambours).
    Người chơi xênh tiền  Joueur de Xênh-trên -   "Xêng tiền" là một loại nhạc cụ gõ của người Mường, nhịp điệu Xêng tiền là một trong những tiết tấu cơ bản của âm nhạc dân gian dân tộc Mường
    Người chơi xênh tiền
    Joueur de Xênh-trên –
    “Xêng tiền” là một loại nhạc cụ gõ của người Mường, nhịp điệu Xêng tiền là một trong những tiết tấu cơ bản của âm nhạc dân gian dân tộc Mường
    Joueur de monocorde : M. Nguyen Song. Instrument monocorde;Dàn Kinh dôc huyên
    Joueur de monocorde : M. Nguyen Song. Instrument monocorde;Dàn Kinh dôc huyên
    M. Kim-Chi, chanteur
    M. Kim-Chi, chanteur
    M. Huyen-U, chanteur
    M. Huyen-U, chanteur
    Un groupe de musiciens annamites 1900-1926
    Un groupe de musiciens annamites 1900-1926
    Đoàn hát bội ở hội chợ triển lãm thuộc địa Marseille 1906
    Đoàn hát bội ở hội chợ triển lãm thuộc địa Marseille 1906
    Đoàn nghệ sĩ xứ thuộc địa Nam Kỳ đi dự Hội chợ Marseille 1906 tại Pháp
    Đoàn nghệ sĩ xứ thuộc địa Nam Kỳ đi dự Hội chợ Marseille 1906 tại Pháp

     

    Ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống Triều dự Hội chợ thuộc địa Marseille 1906 tại Pháp
    Ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống Triều dự Hội chợ thuộc địa Marseille 1906 tại Pháp
    Ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu ngôi đình truyền thống này do tỉnh Thủ Dầu Một thực hiện cho xứ Nam Kỳ tham dự Hội chợ Thuộc địa Marseille 1906, và kế tiếp là Hội chợ Thuộc địa Nogent-sur-Marne năm 1907. Ngôi nhà sau đó được chính phủ Pháp mua lại và năm 1917 đã giao cho tổ chức Kỷ niệm Đông Dương dùng làm Đền Kỷ niệm các binh sĩ Đông Dương hy sinh cho nước Pháp trong Đệ nhất Thế chiến. Ngày 9-6-1920 Đền Kỷ niệm Đông Dương đã được khánh thành. Do chất lượng nghệ thuật của tòa nhà, năm 1965 công trình đã được đưa vào danh mục các công trình lịch sử, nhưng vì công việc bảo trì không được làm đầy đủ, sau một thời gian dài tòa nhà đã bị hư hỏng đáng kể. Một chương trình trùng tu đã được lên kế hoạch vào năm 1983, tuy nhiên khi công việc vừa mới khởi sự thì tòa nhà đã bị thiêu hủy hoàn toàn vì một vụ cố ý gây hỏa hoạn..
    Ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu ngôi đình truyền thống này do tỉnh Thủ Dầu Một thực hiện cho xứ Nam Kỳ tham dự Hội chợ Thuộc địa Marseille 1906, và kế tiếp là Hội chợ Thuộc địa Nogent-sur-Marne năm 1907. Ngôi nhà sau đó được chính phủ Pháp mua lại và năm 1917 đã giao cho tổ chức Kỷ niệm Đông Dương dùng làm Đền Kỷ niệm các binh sĩ Đông Dương hy sinh cho nước Pháp trong Đệ nhất Thế chiến. Ngày 9-6-1920 Đền Kỷ niệm Đông Dương đã được khánh thành. Do chất lượng nghệ thuật của tòa nhà, năm 1965 công trình đã được đưa vào danh mục các công trình lịch sử, nhưng vì công việc bảo trì không được làm đầy đủ, sau một thời gian dài tòa nhà đã bị hư hỏng đáng kể. Một chương trình trùng tu đã được lên kế hoạch vào năm 1983, tuy nhiên khi công việc vừa mới khởi sự thì tòa nhà đã bị thiêu hủy hoàn toàn vì một vụ cố ý gây hỏa hoạn..
    Cochinchine - Saigon - Groupe de Musiciens au Repos
    Cochinchine – Saigon – Groupe de Musiciens au Repos

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  • Cộng đồng người Hoa thời xưa tại Sài Gòn Chợ Lớn

    Cộng đồng người Hoa thời xưa tại Sài Gòn Chợ Lớn

    Lịch sử Trung Quốc và Việt Nam rất gắn liền nhau, sự hiện diện của người Hoa trên đất Việt đã có từ ngàn xưa, người dân Trung Quốc rất giỏi về buôn bán, họ hay sống chung đoàn tụ lại với nhau. “Chợ Lớn” là khu phố người Hoa rất lớn ở Saigon, cũng giống như là quận 13 của Paris vậy.

    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Phái đoàn Trung Quốc
    Phái đoàn Trung Quốc
    Chợ lớn thuở sơ khai
    Chợ lớn thuở sơ khai
    Thợ sửa giày
    Thợ sửa giày
    Bán hủ tiếu
    Bán hủ tiếu
    Ðám ma
    Ðám ma
    Back to the Future
    Back to the Future
    Hút thuốc phiện
    Hút thuốc phiện
    Ðang làm vịt quay
    Ðang làm vịt quay
    Ðoàn hát Quảng
    Ðoàn hát Quảng
    Nhà hát người Tàu
    Nhà hát người Tàu
    Chùa Tàu
    Chùa Tàu
    Một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Ðường Canton trong Chợ lớn
    Ðường Canton trong Chợ lớn
    Hút thuốc (phiện, thuốc lào)
    Hút thuốc (phiện, thuốc lào)
    Hút thuốc phiện
    Hút thuốc phiện
    Gia đình giàu người Hoa
    Gia đình giàu người Hoa
    Bán thuốc rong
    Bán thuốc rong
    Một nhà sư người Tàu
    Một nhà sư người Tàu
    Nam nghệ sĩ
    Nam nghệ sĩ
    Nữ nghệ sĩ
    Nữ nghệ sĩ
    Một cô gái Nûng
    Một cô gái Nûng
    Một người Hoa trung lưu
    Một người Hoa trung lưu
    Đám rước
    Đám rước
    Đám múa lân, Cholon_la_procession_du_dragon
    Đám múa lân
    Đốt pháo ở Chợ Lớn, Cholon_tir_des_petards_n49
    Đốt pháo ở Chợ Lớn
    Bên trong một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Bên trong một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Lào Kay
    Một gia đình người Hoa ở Lào Kay
    Tiệm bán thịt
    Tiệm bán thịt
    Thương mại
    Thương mại
    Thợ máy người Hoa
    Thợ máy người Hoa
    Tập tục bó chân của người Hoa
    Tập tục bó chân của người Hoa

     

     

     

  • Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Ðây là đoàn lính người Việt đi làm cho Tây, còn được gọi là Lính Tập, họ nằm dưới sự chỉ huy của người Pháp, khác với người Lính Thú là lính của Việt Nam, nằm dưới quyền chỉ huy của các Vua Quan Việt Nam.

    Có nhiều loại Lính Tập : Lính ở các tỉnh, phủ, huyện gọi là lính Khố Xanh : ngang lưng có thắt cái đaixanh phía trong áo, chỉ để lòi ra 1 mảnh. Lính của chánh phủ Ðông Dương gọi là lính Khố Ðỏ (cũng thắt đai y như vậy nhưng là màu đỏ)

    Tây đã đem người Việt qua Pháp để chiến đấu trong kỳ đệ nhất thế chiến, trong đó có 43 000 quân (với 1 123 thiệt mạng) và 49 000 nhân công(1).

    (1) Tài liệu trong sách “L’Indochine en cartes postales” của Jean Noury, nhà xuất bản publi-fusion.

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính Việt trong mặt trận sông Marne, 1918 Pháp
    Lính Việt trong mặt trận sông Marne, 1918 Pháp
    Lính Việt trồng rau trong vườn của điện Versailles
    Lính Việt trồng rau trong vườn của điện Versailles
    Một đoàn lính Việt (bên Pháp)
    Một đoàn lính Việt (bên Pháp)
    Lính Việt nấu cơm (bên Pháp)
    Lính Việt nấu cơm (bên Pháp)

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Bữa cơm (bên Pháp)
    Bữa cơm (bên Pháp)
    Trong một nhà máy chế tạo súng đạn ở Pháp
    Trong một nhà máy chế tạo súng đạn ở Pháp
    Lễ phát huy chương cho quan Việt Nam ở bệnh viện Nogent-sur-Marne
    Lễ phát huy chương cho quan Việt Nam ở bệnh viện Nogent-sur-Marne
    Quân đội Việt Nam đi diễn hành (bên Pháp) trong ngày quốc khánh Pháp (1913)
    Quân đội Việt Nam đi diễn hành (bên Pháp) trong ngày quốc khánh Pháp (1913)
    Ðoàn lính Việt viễn chinh
    Ðoàn lính Việt viễn chinh
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính Vĩnh Long

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Ngựa chiến của lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Ngựa chiến của lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Một buổi huấn luyện binh lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Một buổi huấn luyện binh lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

     

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính đông dương ở Lào-Cai
    Lính đông dương ở Lào-Cai

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính đánh thuê người  Algérien
    Lính đánh thuê người Algérien
    Con lính
    Con lính
    Khánh thành đài tưởng niệm
    Khánh thành đài tưởng niệm
    Lính bị phạt
    Lính bị phạt

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Một cuộc dừng quân trong chiến dịch năm 1894
    Một cuộc dừng quân trong chiến dịch năm 1894

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính đông dương ở Móng-Cái
    Lính đông dương ở Móng-Cái
    Lính phòng bị
    Lính phòng bị
    Lính thuộc địa của tiểu đoàn 10
    Lính thuộc địa của tiểu đoàn 10

    HinhanhVietNam.com sưu tầm từ free.fr

     

  • Cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám

    Cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám

    Cuộc khởi nghĩa Yên Thế bắt nguồn tại vùng Yên Thế Thượng. Đây là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang lớn nhất trong lịch sử đấu tranh chống Pháp của dân tộc Việt-Nam và cũng là một trong những cuộc khởi nghĩa duy nhất mà người Pháp đã lưu lại trên bưu thiệp.

    Sau hoà ước Quí-mùi (1883) chấp nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc-kỳ, Vua Việt-Nam kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp. Ðề-Ðốc Trương-Văn-Thám đã hưởng ứng phong trào này và nổi dậy chống Pháp chiếm giữ các vùng Bắc-Giang, Thái-Nguyên và Hưng-Hóa. Dân chúng gọi ông là Ðề-Thám.<

    Pháp đem quân đánh mãi mà không được nên năm 1894, Pháp phải xử hoà với ông, cho ông cai quản 22 xã trong vùng Yên-Thế, Ðề-Thám lập căn cứ ở Chợ-Gò. Dân chúng gọi ông là con “Hùm thiêng Yên-Thế”. Nhưng hai năm sau thì Ðề-Thám lại nổi lên đánh Pháp, tới năm 1898 thì Pháp lại xin ký hoà ước nhường cho ông thêm nhiều quyền lợi nữa. Ðề-Thám sống yên cho tới năm 1905 thì lại nổi dậy đánh Pháp một lần nữa (những tấm hình ông chụp với gia đình là trong khoãng nầy).
    Năm 1908, Ðề-Thám quyết định đánh một cú lớn để chiếm thành Hà-Nội nên đã âm mưu với nhiều người đầu bếp để bỏ thuốc độc (bột datura) cho 200 lính Pháp giữ thành ăn, nhưng vì liều thuốc hơi yếu nên lính Pháp chỉ bị lảo đảo chứ không chết, cuộc âm mưu bất thành.

    Ðầu năm 1909, quân đội Pháp quyết định mở chiến dịch lớn để tấn công Ðề-Thám trong tận sào huyệt, Ðề-Thám thua nên bỏ trốn vào rừng. Pháp ra giải thưởng 25.000 đồng cho ai bắt hay giết được Ðề-Thám. Có ba tay lãng tử người Tàu vì ham tiền nên tìm đến Ðề-Thám để xin gia nhập rồi thừa lúc ban đêm ông ngủ mà xúm đến chặt đầu ông đem về lãnh thưởng ngày 10 tháng 2 năm quí-sửu (18-3-1913), chấm dứt một cuộc kháng chiến trường kỳ trên một phần tư thế kỷ.

    Mời đọc giả HinhanhVietNam.com xem các bức hình rất quý về cuộc khởi nghĩa Yên Thế – Yên Bái từ năm 1884-1913

    Anh hùng Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905)
    Anh hùng Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905)
    Ðề-Thám và mấy người con cháu (giữa 1898 và 1905)
    Ðề-Thám và mấy người con cháu (giữa 1898 và 1905)
    Những bạn cách mạng của Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905)
    Những bạn cách mạng của Ðề-Thám (giữa 1898 và 1905)
    Những bạn cách mạng của Ðề-Thám
    Những bạn cách mạng của Ðề-Thám
    Ðại gia đình của Ðề-Thám trước khi bị bắt hết
    Ðại gia đình của Ðề-Thám trước khi bị bắt hết
    Gia đình cha vợ của Ðề-Thám bị bắt
    Gia đình cha vợ của Ðề-Thám bị bắt
    Cha vợ của Ðề Thám bị bắt
    Cha vợ của Ðề Thám bị bắt
    Thi Nho, người vợ thứ 3 của Ðề Thám bị bắt
    Thi Nho, người vợ thứ 3 của Ðề Thám bị bắt
    The Mui, người vợ thứ 2 của Cả Rinh (con nuôi của Ðề Thám)
    The Mui, người vợ thứ 2 của Cả Rinh (con nuôi của Ðề Thám)
    The Mui bị bắt
    The Mui bị bắt
    Yên Thế, 2 nghĩa quân bị bắt (1911)
    Yên Thế, 2 nghĩa quân bị bắt (1911)
    Ngôi chùa tuyên thệ của nhóm Ðề-Thám
    Ngôi chùa tuyên thệ của nhóm Ðề-Thám
    Một nghĩa quân và Quynh, con rể của Ðề Thám ra hàng
    Một nghĩa quân và Quynh, con rể của Ðề Thám ra hàng
    Cho Go, repaire de De Tham
    Cho Go, repaire de De Tham
    Một cái thành lũy của Ðề-Thám
    Một cái thành lũy của Ðề-Thám
    Phía trong của thành lũy
    Phía trong của thành lũy
    Phía trong của thành lũy
    Phía trong của thành lũy
    Một đồn lính Pháp trong vùng Yên-Thế
    Một đồn lính Pháp trong vùng Yên-Thế
    Ðường hào của quân đội Pháp để chống lại Ðề-Thám
    Ðường hào của quân đội Pháp để chống lại Ðề-Thám
    Pháp đang xây dựng một đồn lính trong vùng Yên-Thế
    Pháp đang xây dựng một đồn lính trong vùng Yên-Thế
    Lính Pháp trong vùng Yên-Thế
    Lính Pháp trong vùng Yên-Thế
    Vận tải một tử thương (1909)
    Vận tải một tử thương (1909)
    Chôn cất một lính Pháp tử trận (1909)
    Chôn cất một lính Pháp tử trận (1909)
    Chuyên chở một thương binh (1909)
    Chuyên chở một thương binh (1909)
    Thương binh Pháp (1909)
    Thương binh Pháp (1909)
    Yên Thế, lính Pháp đang nấu ăn
    Yên Thế, lính Pháp đang nấu ăn
    Yên Thế, lính thủy quân Pháp ở Mo Trang
    Yên Thế, lính thủy quân Pháp ở Mo Trang
    Khởi nghĩa Yên Thế
    Khởi nghĩa Yên Thế
    Khởi nghĩa Yên Thế
    Khởi nghĩa Yên Thế
    Khâm-Sai Lê-Hoàn, kẻ thù truyền kiếp của Ðề-Thám
    Khâm-Sai Lê-Hoàn, kẻ thù truyền kiếp của Ðề-Thám
    Nhóm quân của Phạm Quế Thắng
    Nhóm quân của Phạm Quế Thắng
    Một người trong nhóm Ðề-Thám đang bị hỏi cung
    Một người trong nhóm Ðề-Thám đang bị hỏi cung
    Nghĩa quân bị bắt làm tù binh
    Nghĩa quân bị bắt làm tù binh
    Một người trong nhóm Ðề-Thám bị bắt
    Một người trong nhóm Ðề-Thám bị bắt
    Tù binh Ðề-Thám trên hải cảng  Alger trước khi vào tù ở Guyane
    Tù binh Ðề-Thám trên hải cảng Alger trước khi vào tù ở Guyane
    Tù binh Ðề-Thám tới hải cảng Alger
    Tù binh Ðề-Thám tới hải cảng Alger
    Những anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử tử (1908)
    Những anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử tử (1908)
    Thủ cấp của những anh hùng nhóm Ðề-Thám
    Thủ cấp của những anh hùng nhóm Ðề-Thám
    Thủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-Thám
    Thủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-Thám
    Tù nhân bị bắt trong vụ "Ðầu Ðộc" (1908)
    Tù nhân bị bắt trong vụ “Ðầu Ðộc” (1908)
    Bị xử trảm (1908)
    Bị xử trảm (1908)
    Thủ cấp (1908)
    Thủ cấp (1908)
  • Vài hình ảnh về Triều Đình xưa

    Vài hình ảnh về Triều Đình xưa

    Triều Ðình (gồm có Vua và các quan) là cơ quan cai trị cả nước. Mỗi tháng Triều Ðình họp Ðại Triều 2 lần, vào các ngày mùng 1 và 15 âm lịch ở điện Thái Hoà. Các quan văn võ ở Kinh Ðô phải có mặt ở sân Rồng, đứng xếp hàng theo phẩm cấp của mình, lớn trước nhỏ sau.

    Ðứng đầu các tỉnh là có quan Tổng Ðốc, sau đó là tới quan Tri Phủ, Tri Huyện và Tri Châu, các quan nầy lo việc hành pháp (áp dụng luật lệ và lo vấn đề an ninh cho dân chúng).

    Muốn được làm quan phải là người có học, phải thi đậu các kỳ thi tổ chức bởi Triều Ðình như kỳ thi ở Nam Ðịnh (xin coi phần “Từ dân lên quan”).

    Quan càng cao chức thì khi đi lại càng có nhiều lọng (dù lớn).

    Vẹ binh Huế
    Vệ binh Huế

     

    Kỵ binh
    Kỵ binh
    Kỵ binh
    Kỵ binh
    Kỵ binh
    Kỵ binh
    Vệ binh Hoàng Thành Huế
    Vệ binh Hoàng Thành Huế
    Trưởng nhóm vệ binh. Hue chef de la garde royale
    Trưởng nhóm vệ binh. Hue chef de la garde royale
    Tượng binh
    Tượng binh
    Voi lạy
    Voi lạy
    Các quan chầu trong Sân Rồng
    Các quan chầu trong Sân Rồng
    Các quan chầu trong Sân Rồng
    Các quan chầu trong Sân Rồng
    Các quan đang làm lễ tế Nam Giao
    Các quan đang làm lễ tế Nam Giao
    Một ông quan uống trà
    Một ông quan uống trà
    Một ông quan tỉnh
    Một ông quan tỉnh
    Một ông quan nhà Nguyễn
    Một ông quan nhà Nguyễn
    Một ông quan lớn
    Một ông quan lớn
    Quan đi võng
    Quan đi võng
    Quan đi ngựa
    Quan đi ngựa
    Tổng Ðốc Hà Nội
    Tổng Ðốc Hà Nội
    Tổng Ðốc Hà Nội (1885)
    Tổng Ðốc Hà Nội (1885)
    Một ông quan và vợ
    Một ông quan và vợ
    Một ông quan
    Một ông quan
    Ðĩnh đồng
    Ðĩnh đồng
    Cư dinh của Hội trưởng Tôn Nhân phủ (hội đồng Hoàng tộc)
    Cư dinh của Hội trưởng Tôn Nhân phủ (hội đồng Hoàng tộc)
    Các quan lại
    Các quan lại
    Các quan lại
    Các quan lại
    Một quan lớn của triều đình
    Một quan lớn của triều đình
    Một ông Quan Huyện và các quan Châu
    Một ông Quan Huyện và các quan Châu
    Một quan Tri Châu
    Một quan Tri Châu
    Thái giám
    Thái giám
    Một người hầu của Vua
    Một người hầu của Vua
    Một người đánh chuông
    Một người đánh chuông
    Một cổng vào của thành xưa
    Một cổng vào của thành xưa
    Súng thần công
    Súng thần công
    Ban lễ nhạc
    Ban lễ nhạc
    Nhạc công trong hoàng cung
    Nhạc công trong hoàng cung

    HinhanhVietNam tham khảo từ free.fr