Category: Địa danh lịch sử

  • Phim quý: Hà Nội xưa, trước năm 1954 và Hà Nội 1975

    Hà Nội xưa trước năm 1954:

    https://www.youtube.com/watch?v=sNH6vRlHHUk&feature=youtu.be

    Hà Nội những năm 1975:

    https://www.youtube.com/watch?v=NiTkKq7UzTI&feature=youtu.be

    Đường phố Hà Nội thời Pháp thuộc – trước 1954:
    1. Rue soeur Antoine – phố Hàng Bột
    2. Rue d’Autigeon (Đặng Tất)
    3. Avenue Beauchamp là tên cũ phố Nguyễn Chế Nghĩa, từ dưới dốc Hàng Đào đến nhà Khai Trí Tiến Đức.
    4. Avenue Général Bichot, tên cũ phố Cửa Đông
    5. Avenue Brière de I’Isle, tên cũ của đường Hùng Vương
    6. Rue Antoine Bonnet nay là phố Nguyễn Gia Thiều
    7. Bonifacy tên cũ phố Châu Long đoạn phía bắc
    8. Boulevard Gia Long (Đại Lộ Gia Long) nay gọi là Phố Bà Triệu
    _d Bobillot , tên cũ phố Lê Thánh Tông thời Pháp thuộc.
    10. Boulevard Carnot nay là phố Phan Đình Phùng
    11. Rue Boissière phố Nguyễn Xí bây giờ
    12. Rue Barona tên cũ phố Liên Trì (đoạn phía bắc)
    13. Rue Général Beylié là tên cũ phố Hàng Chuối
    14. Rue Bourrin, tên cũ phố Yên Ninh
    15. Rue Capitaine Bruisseau, tên cũ phố Tống Duy Tân
    16. Boulevard Carreau nay là phố Lý Thường Kiệt
    17. Rue Berthe de Vilers là tên cũ phố Đinh Công Tráng
    18. Rue Borgnis Desbordes giờ là phố Tràng Thi
    19. Rue Bourret, tên cũ phố Ngõ Trạm
    20. Rue Bovet tên cũ phố Yết Kiêu bây giờ
    21. Rue Bernard de Beau tên cũ phố Nguyễn Chế Nghĩa
    22. Rue des Cantonnais giờ là Phố Hàng Ngang
    23. Cité Bảo Hưng là tên cũ ngõ Lê Văn Hưu I
    24. Rue Cambanère tên cũ phố Hàng Bút
    25. Phố Duvigneau nay là Bùi Thị Xuân
    26. Rue Docteur Calmette sau này là phố Yersin
    27. Rue Graffeuil – Phố Bích Câu thuộc đất hai thôn cũ Yên Trạch và Cát Linh
    28. Rue Londe – năm 1964 đổi tên là Ngõ Hàng Bông nay gọi là Phố Cấm Chỉ
    29. Place Neyret (Quảng trường Neyret) nay gọi là Vườn hoa Cửa Nam trước kia còn gọi là Bách Việt
    30. Paris – Tên vườn hoa cạnh Nhà Hát lớn đặt trong thời tạm chiếm 1947-1954
    31. Rue Paul Bert nay là phố Tràng Tiền thời Pháp đi từ Quảng trường Nhà Hát Lớn đến hết phố Hàng Khay.
    32. Ruelle Père Lecornu (Phố Đức Cha Lecornu): giờ gọi là Ấu Triệu
    33. Rue Hillaret giờ gọi là Ngõ Nguyễn Hữu Huân
    34. Rue Maréchal Pétain (Thống chế Petain của nền CH thứ 3) giờ là Phố Nguyễn Hữu Huân
    35. Impasse Verdun nay là ngõ Phan Huy Chú.
    36. Rond point Puginier (bùng binh Puginier) – nay là Quảng trường Ba Đình
    37. Rue Résident Morel (khu Morel) năm 1946 gọi là phố Mạc Đĩnh Chi nay gọi là Bà Huyện Thanh Quan
    38. Rue Paul Balny là tên cũ phố Trần Nguyên Hãn
    39. Rue Pottier trước có tên là Báo Khánh ở phía tây Hồ Gươm
    40. Square Gambetta (ngã tư Trần Thánh Tông và Trần Hưng Đạo).
    41. Rue Julien Blanc: phố phủ Doãn ngày nay
    42. Route Blockhaus Nord (đường Lô Cốt Bắc) phố Phó Đức Chính ngày nay
    43. Rue Paul Bert – Vườn hoa và phố ( chưa biết là ở đâu ở HN???)
    44. Rue du Pont en bois – Phố Cầu Gỗ
    45. Rue Riquier tức Nguyễn Du bây giờ

    Nguồn: Nam Ròm blog

  • Tất cả dừng lại và chờ cho trẻ em băng qua đường

    Tất cả dừng lại và chờ cho trẻ em băng qua đường

    Tất cả dừng lại và chờ cho trẻ em băng qua đường, Hà Nội ngày 23/05/1954. Robert Capa - Indochina 1954. Last days of French war in Indochina. Robert Capa © International Center of Photography Hanoi. May 23rd, 1954. French Soldiers waiting for children to cross the road

    Tất cả dừng lại và chờ cho trẻ em băng qua đường, Hà Nội ngày 23/05/1954.
    Robert Capa – Indochina 1954. Last days of French war in Indochina.
    Robert Capa © International Center of Photography
    Hanoi. May 23rd, 1954.
    French Soldiers waiting for children to cross the road

  • Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích “dân chơi cầu ba cẳng”

    Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích “dân chơi cầu ba cẳng”

    Cầu Ba Cẳng ở đâu? Tại sao gọi là dân chơi cầu ba cẳng?

    Hãy cùng Hình ảnh Việt Nam xưa khám phá cây cầu đặc biệt thú vị này nhé.

    DÂN CHƠI … ” CẦU BA CẲNG ” là ai.?…

    Người Sài gòn khi dùng cụm từ ” Dân chơi Cầu Ba Cẳng ” là để ám chỉ một phần những người chơi không đàng hoàng đi kèm một sự quá đáng hay không xứng đáng ở phong cách thể hiện… môt sự hợm hỉnh ,không phù hợp và không đúng với xu hướng Thời trang , xuất phát từ đặc điểm lịch sử qua các thời kỳ…

    Cũng được gọi là DÂN CHƠI nhưng không bao giờ “ Dân chơi Cầu Ba Cẳng ” được xếp vào hàng Đẳng cấp do không có tính ” Sành điệu…Phong độ và Oai hùng ” như Dân chơi Sài gòn thứ thiệt…cụm từ “ Dân chơi Cầu Ba Cẳng ” vẫn còn là một cách nói đặc trưng không thể trộn lẫn trong giao tiếp của người Sài Gòn xưa. và bây giờ….

    @Phùng Văn Danh

    Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa Ảnh chụp năm 1950
    Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa Ảnh chụp năm 1950
          Đây là tấm hình hiếm hoi còn sót lại của cầu Ba Cẳng, một cây cầu chẳng có mấy quan trọng, nhưng nó đã trở thành một phần của lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn xưa, với cái tên nghe thật dân dã và cũng có lắm chuyện xưa liên quan đến nó, như chuyện “Dân chơi cầu Ba Cẳng” của nhà văn Trương Đạm Thủy: “Ở vùng Quận 6 Chợ lớn cách đây mấy mươi năm có một cây cầu bằng sắt có hình dạng rất lạ có ba chân. Vì cầu chẳng có cái tên chính thức nào như cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Chà Và, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận … nên người dân lấy hình mã đặt tên, tức cầu Ba Cẳng” – trích lời nhà văn Trương Đạm Thủy.
    Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích "dân chơi cầu ba cẳng" Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích "dân chơi cầu ba cẳng" Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích "dân chơi cầu ba cẳng" Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích "dân chơi cầu ba cẳng" Cầu Ba Cẳng Sài Gòn xưa và sự tích "dân chơi cầu ba cẳng"

    Cầu Ba Cẳng ở đâu? 

          Cầu Ba Cẳng ở quận 6 Chợ Lớn, bắc qua rạch Bãi Sậy, gần Chợ Bình Tây, và gần phía sau chợ Kim Biên (chợ Kim Biên chỉ mới có sau 1975, trước đó vị trí chợ là một công viên). Chân cầu bên phải là đường Gò Công ngày nay.
    Phía sau chợ Kim Biên, nối 2 bờ rạch Hàng Bàng. Gần cầu Ba Cẳng, ở ngã ba rạch Bãi Sậy từ kênh Tàu Hủ và rạch chạy đến đường Kim Biên (tiếng Quảng Đông nghĩa là Cao Miên, vì trước đây gọi là đường Cao Miên hay rue de Cambodge) là đường Gò Công, đây là đường từ Chợ Lớn đi xuống Gò Công (cầu Ba Cẳng có bậc đi xuống đường Gò Công).
    Trụ sở và xưởng sản xuất “xà bông Việt Nam” nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên.
    Cầu Ba cẳng nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và Cầu Ba Cẳng tồn tại đến năm 1990 thì bị sập không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Phía sau chợ Kim Biên vẫn còn một đoạn rạch rất ngắn khoảng 30m rộng 3m, trước đổ ra thẳng kênh Tàu Hủ.
    Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, rạch Bãi Sậy hay kênh Hàng Bàng ngày nay đã lấp đến 90% trở thành đường Bãi Sậy và đường Phạm Văn Khỏe, Quận 6, chạy từ rạch Lò Gốm (phía bên trái) ngang qua chợ Bình Tây, tới chỗ cầu Ba Cẳng rẽ phải một đoạn ngắn chảy ra rạch Tàu Hủ. Đây là con đường chính để đưa hàng hóa đến chợ và hàng hóa từ chợ sau đó lại tỏa đi khắp nơi khi vận tải đường bộ còn chưa phát triển trong nửa đầu thế kỷ 20.
        Kênh Bonard, tức rạch Bãi Sậy, Chợ Lớn, cũng được gọi là kênh các lò gốm. Cái cẳng thứ 3 của Cầu 3 cẳng là hướng thẳng vào trục đường Trịnh Hoài Đức. Và đúng là rạch Lò Gốm và Bãi Sậy là 2 rạch khác nhau. Nhiều rạch xưa nay đã bị lấp, nên trên các bản đồ Sài Gòn mới sau này không còn tìm thấy chúng. Trong phần chú thích tiếng Pháp có ghi rõ: “Đường nhà buôn (tức là đường Nguyễn Văn Thành). Kênh Bonard, cũng được gọi là kinh các lò gốm, là một huyết mạch thương mại chính của Chợ Lớn”.
    Đoạn cuối rạch Bãi Sậy gần Cầu Ba Cẳng, nhìn từ cầu Palikao. Cầu Palikao là cầu qua rạch Bãi Sậy trên đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một câu gần Bắc Kinh, gọi là Bát lí kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh
    Gần cầu Palikao và chợ Kim Biên hồi xưa có ngôi nhà lớn của một trong bốn người giàu nhất Sài Gòn, đó là ông Trần Hữu Định, cũng được gọi là Bá hộ Định, người được xếp thứ tư trong “Tứ đại Phú Gia Sài Gòn”: Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định.
    Cầu Ba Cẳng nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức (là con đường chạy thẳng ở cuối rạch Bãi Sậy). Đi về phía phải của Cầu Ba Cẳng trong hình này vài chục mét là tới chợ Kim Biên ngày nay, còn về phía trái khoảng 200m là tới Đại lộ Đông Tây và kênh Tàu Hủ. Hình này chụp khoảng đầu thập niên 1950, ngày nay cầu này không còn nữa. Cái cẳng trong hình này là cẳng đi xuống đường Yunnan, tức đường Vân Nam (sau 1955 là đường Vạn Tượng), còn hai cẳng kia thì bắc qua hai con đường hai bên rạch Bãi Sậy: bên trái xuống bến Bãi Sậy, bên phải xuống bến Nguyễn Văn Thành nơi đầu đường Cambodge (sau 1955 là đường Kim Biên).
    Cầu có “3 cẳng” đều giống nhau nên khó phân biệt được cẳng nào với cẳng nào.
    HinhanhVietNam.com sưu tầm và tổng hợp từ khoquatrai.blogspot.com
  • Ảnh tuyệt đẹp về xứ Huế cuối thập niên 1920

    Vẻ đẹp thâm trầm của xứ Huế cuối thập niên 1920 trong loạt ảnh của Raymond Chagneau, một nhà vẽ bản đồ người Pháp làm việc tại Việt Nam từ 1925-1930.

     

    Nhà bia trong khu lăng vua Đồng Khánh.

     

     

    Cổng Ngọ Môn.

    Cận cảnh Ngọ Môn.

    Cột cờ Hoàng thành Huế.

    Khu vực phía trước lăng Gia Long với hồ nước, hai trụ biểu và núi Đại Thiên Thọ.

    Hồ nước ở lăng Minh Mạng.

    Chợ Đông Ba với tháp chuông ở trung tâm.

    Một góc chợ Đông Ba.

    Theo kienthuc.net.vn

  • Nghề đưa thư thời Phong kiến

    Nghề đưa thư thời Phong kiến

    Ngày xưa dưới thời phong kiến, vấn đề đưa tin là chỉ có trong lãnh vực triều đình mà thôi. Dân chúng thì chỉ có thể chờ cơ hội để nhờ người này hay người nọ mang thư giùm. Người Pháp có công trong việc tạo ra một hệ thống đưa tin cho toàn dân.

    Nghề đưa thư vào thời này hơi nguy hiểm vì lãnh thổ Việt Nam còn nhiều rừng rú, nơi ẩn náu nhiều thú dữ, nhất là cọp. Có rất nhiều người phát thư bị cọp vật trong khi hành nghề.

    Một đoàn xe chở thơ Saigon Can-Tho
    Một đoàn xe chở thơ Saigon – CanTho
    Xe phát thơ Saigon Tay Ninh
    Xe phát thơ Saigon Tay Ninh
    Ðoàn vận tải thơ bằng chân!
    Ðoàn vận tải thơ bằng chân!
    Nghỉ ngơi
    Nghỉ ngơi
    Công tác chuẩn bị trước khi lên đường phát thư
    Công tác chuẩn bị trước khi lên đường phát thư
    Cọp mò vào làng dân
    Cọp mò vào làng dân
    Bẫy cọp
    Bẫy cọp
    Một con cọp bị bắt (1937)
    Một con cọp bị bắt (1937)
    Một con cọp bị giết
    Một con cọp bị giết
    Nhiều khi phải đi bằng voi để tránh gặp thú dữ
    Nhiều khi phải đi bằng voi để tránh gặp thú dữ

    Chổ trú đêm trong rừng cho mấy người phát thơ
    Chổ trú đêm trong rừng cho mấy người phát thơ

    HinhanhVietNam.com theo free.fr

  • Cầu Hiền Lương – Chứng nhân lịch sử

    Cầu Hiền Lương – Chứng nhân lịch sử

    Cầu Hiền Lương chứng nhân lịch sử. Sau trận quyết chiến ở Điện Biên Phủ năm 1945, Pháp buộc phải ký hiệp định Genève trao trả độc lập cho Việt Nam lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự. Và từ đó cây cầu Hiền Lương chính là nơi diễn ra rất nhiều sự kiện ghi đậm dấu ấn lịch sử.

    Cầu Hiền Lương

    Lịch sử xây dựng cầu Hiền Lương

    Trước khi chưa có cầu bắc qua sông Bến Hải, đoạn sông rộng chưa đầy 100m này chỉ có một bến phà. Cầu Hiền Lương đầu tiên được xây dựng năm 1928 do phủ Vĩnh Linh huy động nhân dân trong vùng đóng góp công sức. Cây cầu này được làm bằng gỗ, đóng cọc sắt, rộng 2m, trọng tải chỉ đủ cho người đi bộ. Năm 1931 cây cầu này được thực dân Pháp sửa chữa lại nhưng xe cộ muốn qua sông thì vẫn phải đi bằng phà. Năm 1943 cầu được nâng cấp thêm một lần nữa, lúc này xe cơ giới loại nhỏ có thể qua được.

    Đến năm 1950, do nhu cầu quân sự, Pháp đã cho xây lại cầu bằng bê tông cốt thép, dài 162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Cây cầu này tồn tại được hai năm thì bị du kích Việt Minh đặt bộc phá đánh sập để ngăn chặn sự tiến công của địch. Tháng 5 1952 thực dân Pháp xây lại một chiếc cầu mới gồm 7 nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép, mặt lát bằng gỗ thông, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng tải cầu tối đa là 18 tấn.

    Chiếc cầu này tồn tại được 15 năm (từ 1952 đến 1967) thì bị bom Mỹ đánh sập.

    Từ 1972 đến 1974, để phục vụ chiến trường miền Nam, công binh Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã bắc chiếc cầu phao dã chiến cách cầu cũ 20m về phía Tây. Đến năm 1974 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây dựng lại bằng bê tông cốt thép dài 186m, rộng 9m, có hành lang cho người đi bộ rộng 1,2m. Chính chiếc cầu này mang trong mình ý nghĩa như “Chiếc cầu thống nhất đất nước”.

    Sau ngày hòa bình, cầu cũ ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1996, Bộ Giao thông Vận tải đã cho xây chiếc cầu mới dài 230m, rộng 11,5m, nằm về phía Tây cầu cũ. Cầu mới được thi công bằng công nghệ đúc đẩy – một phương pháp hiện đại nhất lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam. Năm 2001 chiếc cầu sắt năm 1952 – một chứng tích lịch sử của sự chia cắt đất nước được phục chế lại nguyên bản theo thiết kế của chiếc cầu cũ bị bom Mỹ đánh sập năm 1967.

    Ngày 18 tháng 5 năm 2003, tỉnh Quảng Trị đã tổ chức khánh thành công trình phục chế cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, được khởi công tháng 4, 2002 với tổng số tiền đầu tư 6,5 tỷ đồng, cầu phục chế dài 182,97m gồm 7 nhịp, mặt lát gỗ lim.

    Nguồn tư liệu từ: http://vi.wikipedia.org/

    Dưới đây là một số hình ảnh của cây cầu Hiền Lương:

    Dàn loa công suất lớn Cầu hiền lương Tượng đài khát vọng thống nhất( bờ Nam) Cột cờ giới tuyến phía bắc Loa công suất 500kw tại nhà trưng bày Vĩ tuyến 17 Cầu Hiền Lương Nhìn từ bờ nam Cầu hiền luong ngày xưa Cau Hien Luong cầu hiền Lương nhìn từ trên cao Cầu Hiền Lương Dàn loa bên bờ Hiền Lương Quảng trị du kích cắm cờ Ranh Giới vĩ tuyến 17 Cầu Hiền Lương nhìn từ bờ bắc

  • Bộ ảnh màu cực hiếm về Việt Nam hơn 100 năm trước

    Bộ ảnh màu cực hiếm về Việt Nam hơn 100 năm trước

    Ảnh màu hiếm có về Việt Nam hơn 100 năm trước

    Đầu thế kỷ 20, Albert Kahn đã cử các nhiếp ảnh gia của mình tới hơn 50 quốc gia trên thế giới. Đội ngũ của ông đã thực hiện tổng cộng 72.000 bức ảnh, tạo thành bộ sưu tập lớn nhất từ trước tới nay trong giai đoạn “sơ sinh” của ảnh màu. Họ đã chụp những bức ảnh màu đầu tiên ở các quốc gia xa xôi đối với phương Tây thời đó, trong đó có Việt Nam. Là con người mơ mộng và có tư tưởng quốc tế hóa, ông chủ ngân hàng người Pháp Albert Kahn (1860 – 1940) tin rằng mình có thể tăng cường sự giao thoa văn hóa và hòa bình giữa các dân tộc qua nghệ thuật nhiếp ảnh.

    Năm 1909, Kahn bắt đầu thực hiện dự án “kho ảnh về cuộc sống của con người trên trái đất” để ghi lại những hình ảnh từ nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới bằng hệ thống chụp và xử lý ảnh bằng kính màu màu – phương pháp chụp ảnh màu đầu tiên trên thế giới.

    Albert Kahn đã cử các nhiếp ảnh gia của mình tới hơn 50 quốc gia trên thế giới. Đội ngũ của ông đã thực hiện tổng cộng 72.000 bức ảnh, tạo thành bộ sưu tập lớn nhất từ trước tới nay trong giai đoạn “sơ sinh” của ảnh màu. Họ đã chụp những bức ảnh màu đầu tiên ở các quốc gia xa xôi đối với phương Tây thời đó, trong đó có Việt Nam.

    Năm 1929, sự sụp đổ của phố Wall buộc Kahn phải ngừng dự án. Mặc dù ngân hàng bị phá sản sau cuộc Đại suy thoái nhưng bộ sưu tập của ông vẫn “đứng vững”. Ông qua đời năm 1940 và để lại cho thế giới một bộ sưu tập ảnh màu vô cùng quan trọng, một cuốn lịch sử sống động nhất về cuộc sống con người đầu thế kỷ 20.

    Sau đây là một số hình ảnh về Việt Nam trong các năm 1914 – 1916 trong bộ sưu tập của Albert Kahn, được giới thiệu trên trang BELLE INDOCHINE của Pháp.

    Phố Tràng Tiền ở Hà Nội vào năm 1914 – 1915
    Phố Tràng Tiền ở Hà Nội vào năm 1914 – 1915
    Các vị quan trong phẩm phục nghi lễ ở ngoại vi Hà Nội, 1915.
    Các vị quan trong phẩm phục nghi lễ ở ngoại vi Hà Nội, 1915.
    Quan Thống sứ Bắc kỳ bên người vợ và 4 đứa con, 1915.
    Quan Thống sứ Bắc kỳ bên người vợ và 4 đứa con, 1915.
    Phố Hàng Thiếc ở Hà Nội năm 1915.
    Phố Hàng Thiếc ở Hà Nội năm 1915.
    Cầu Paul Dummer (Long Biên), Hà Nội, 1915.
    Cầu Paul Dummer (Long Biên), Hà Nội, 1915.
    Thuyền trên vịnh Hạ Long, 1916.
    Thuyền trên vịnh Hạ Long, 1916.
    Hòn Gai năm 1915.
    Hòn Gai năm 1915.
    Sông Tam Bạc, Hải Phòng, 1915
    Sông Tam Bạc, Hải Phòng, 1915
    Thuyền bè trên sông Hồng, gần cầu Paul Doumer (Long Biên), Hà Nội năm 1915.
    Thuyền bè trên sông Hồng, gần cầu Paul Doumer (Long Biên), Hà Nội năm 1915.
    Gánh hàng chuối bên bến sông Hồng, Hà Nội 1915
    Gánh hàng chuối bên bến sông Hồng, Hà Nội 1915
    Phố Hàng Gai, Hà Nội 1915.
    Phố Hàng Gai, Hà Nội 1915.
    Hai người đàn ông hút thuốc phiện, 1915.
    Hai người đàn ông hút thuốc phiện, 1915.
    Một con thuyền của người Hoa kiều, 1915.
    Một con thuyền của người Hoa kiều, 1915.
    Cô gái người Hoa hút thuốc phiện, 1915.
    Cô gái người Hoa hút thuốc phiện, 1915.
    Vịnh Hạ Long, 1915.
    Vịnh Hạ Long, 1915.
    Một bà đồng, 1915
    Một bà đồng, 1915
    Một ông đồ bán chữ ở Hà Nội, 1915.
    Một ông đồ bán chữ ở Hà Nội, 1915.
    Những người bán gạo, 1914 – 1915.
    Những người bán gạo, 1914 – 1915.
    Những con thuyền gần một mỏ đồng, 1915.
    Những con thuyền gần một mỏ đồng, 1915.
    Chợ Bắc Lệ, Lạng Sơn, 1915.
    Chợ Bắc Lệ, Lạng Sơn, 1915.
    Làng Nà Chạm ở Yên Bái, gần biên giới với Trung Quốc.
    Làng Nà Chạm ở Yên Bái, gần biên giới với Trung Quốc.
    Một ngôi chùa trên đường đến Tam Đảo, 4/1916.
    Một ngôi chùa trên đường đến Tam Đảo, 4/1916.
    Các hương chức gần Hà Nội.
    Các hương chức gần Hà Nội.
    Mỏ than Hòn Gai, 1915.
    Mỏ than Hòn Gai, 1915.

    Hình Ảnh Việt Nam sao chép từ Gocsuyngam

  • Đèo Hải Vân -Thiên hạ đệ nhất hùng quan

    Hình ảnh khai phá và xây dựng cung đường đèo Hải Vân

    Đèo Hải Vân còn có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh đèo xưa kia có một cửa ải) hay đèo Mây (vì đỉnh đèo thường có mây che phủ), cao 500 m (so với mực nước biển), dài 20 km, cắt ngang dãy núi Bạch Mã (là một phần của dãy Trường Sơn chạy cắt ra sát biển) ở giữa địa giới tỉnh Thừa Thiên-Huế (ở phía Bắc) và thành phố Đà Nẵng (ở phía Nam), Việt Nam.

    Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ (1306), vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa (còn gọi là Chiêm Thành). Sau khi được vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn Công chúa Huyền Trân đời Trần vào năm vừa kể (1306), thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.

    Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ (dưới triều Hồ Hán Thương) sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, khiến vua nước ấy là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Lũy để cầu hòa.
    Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân mới thuộc hẳn về nước Đại Ngu (tức Việt Nam ngày nay), và trở thành ranh giới tự nhiên của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, như sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã chép: “Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam”.

    Vào thời Nguyễn, đèo Hải Vân vẫn là chỗ giáp giới giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Phía bắc chân núi giáp vực biển có hang Dơi, tục gọi là bãi Tiêu. Tương truyền xưa có thần sóng, thuyền đi qua đó thường bị lật chìm, nên ngạn ngữ có câu: “Đường bộ thì sợ Hải Vân/ Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi”

     

  • Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam

    Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam

    Tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân NamTuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam là tuyến đường sắt nối Hải Phòng với thành phố Côn Minh, thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tuyến đường sắt khổ hẹp (1,1 m) này được xây vào thời kỳ Pháp thuộc và hoàn thành năm 1910.

    Lịch sử

    Công việc khởi đầu năm 1901 và kéo dài đến năm 1910, băng qua những vùng núi cao vực sâu hết sức hiểm trở.

    Ít nhất có 12.000 trên tổng số 60.000 công nhân bản địa và khoảng 80 người châu Âu đã chết trong thời gian xây dựng tuyến đường sắt, trong đó nhiều người chết vì bệnh sốt rét. Để vượt chênh lệch độ cao 1.900m giữa Hải Phòng và Côn Minh, đoàn thi công phải bắc 173 cây cầu và đào 158 đoạn đường hầm xuyên núi.

    Lộ trình và hoạt động

    Tuyến đường sắt này dài 855 km, trong đó 390 km nằm trên lãnh thổ Việt Nam (từ Hải Phòng lên đến Lào Cai), và 465 km trên lãnh thổ Trung Quốc (từ Hà Khẩu lên đến Côn Minh). Thời gian xây dựng tuyến đường sắt này được xây dựng trong vòng 10 năm, từ 1901 đến 1910,

    Xe lửa chạy tuyến đường này hoạt động đến năm 2000 thì phía Trung Quốc đình chỉ nên sau đó xe từ Hải Phòng lên phải dừng ở Lào Cai. Đoạn đường bên Trung Quốc bỏ hoang.

    Vì là đường rầy khổ hẹp, chính phủ Trung Quốc đã có kế hoạch đến năm 2015 sẽ xây dựng lại chặng đường sắt từ Côn Minh đến biên giới Việt Nam theo khổ tiêu chuẩn quốc tế (1,435m), tạo cơ sở cho việc lập một tuyến đường sắt liên Á theo kế hoạch sẽ nối từ Côn Minh đến Singapore.

    Nguồn tư liệu : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tuyến_đường_sắt_Hải_Phòng_-_Vân_Nam

    Hình ảnh quá trình xây dựng Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam

     

     

  • SaPa – Lào Cai thời Pháp thuộc

    Năm 1903, trong chuyến đi thực tế ở Lào Cai để lập bản đồ, đoàn trắc địa của Sở Địa lý Đông Dương đã phát hiện ra một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp và khí hậu dễ chịu trên cao nguyên Lồ Suối Tủng (cao nguyên Sa Pa) thuộc dãy Hoàng Liên Sơn. Ngay lập tức người ta nảy ra ý tưởng xây dựng ở nơi đây một trại điều dưỡng. Tuy nhiên, ý tưởng này phải đến năm 1909 mới được Công sứ tỉnh Lào Cai Toures đề xuất. Mieville là người Pháp đầu tiên đến ở Sa Pa vào tháng 7 năm 1909 tại vị trí sau này xây dựng khách sạn Metropole.

    Ngay sau đó, có rất nhiều bài nghiên cứu về Sapa, đặc biệt là bài “Khu nghỉ dưỡng” của Hautefeuille trên tạp chí Đông Dương năm 1910 có đoạn viết “Tôi hoàn toàn bị quyến rũ ngay từ chuyến đi Sa Pa lần đầu tiên. Con đường dẫn đến Sa Pa chạy qua khu vực có phong cảnh tuyệt đạp. Hai phần ba quãng đường xuyên rừng với vẻ đẹp hiếm thấy… Thung lũng giữa dãy Phanxipăng và cao nguyên Sa Pa (còn gọi là cao nguyên Lồ Suối Tủng) đẹp như thể thung lũng của dãy Pyrenees ở Tây Ban Nha…”.

    Cảnh đẹp Sa Pa đã thu hút rất nhiều người Pháp đến đây. Năm 1910, đoàn lính lê dương đầu tiên đến để mở đường và lập trại lính. Đến 1919 trại điều dưỡng dành cho quân đội đã được xây dựng. Từ 1910 đến 1920, đã có 6 toà nhà được xây dựng. Năm 1920-1930, Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, 3 khách sạn (Fansipan, Vaumousse, Morellon) và 28 ngôi nhà được xây dựng. Năm 1930-1940, 26 biệt thự, 1 nhà thờ và khách sạn Métropole được xây dựng. Năm 1940-1943, 8 biệt thự và 10 toà nhà được hoàn thành. Ngoài các công trình lớn, cho đến 1943 có rất nhiều công trình nhỏ khác. Cùng với việc xây dựng các công trình trên, người Pháp đã hoàn thiện hệ thống cung cấp điện, nước cho khu vực này. Hiện nay, công trình thuỷ điện Cát Cát vẫn còn hoạt động, cung cấp nước cho thị trấn Sa Pa.

    Thời kỳ đó, người Pháp có mục tiêu xây dựng một “kinh đô nghỉ hè” thực sự tại đây.

  • Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Mời các bạn xem những hình ảnh bất ngờ về Việt Nam rất cổ xưa (thập niên 1890)  hết sức quý giá.

    Ít ai biết rằng, đã từng có Tượng Nữ thần Tự do trên đỉnh Tháp Rùa, cầu Thê Húc “khẳng khiu”, bãi lầy ở nơi là đường Thanh Niên…

    Bộ sưu tập hình ảnh về Việt Nam trong thập niên 1890.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Bờ hồ Hoàn Kiếm, gần lối vào đền Ngọc Sơn, Hà Nội 1896. Một trạm tàu điện đã được xây dựng tại khu vực này năm 1916. Hình ảnh do nhiếp ảnh gia Pháp Firmin André Salles (1860-1929) thực hiện, được giới thiệu trong bộ sưu tập của thành viên Manhhai trên trang Flickr.com.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Cầu Thê Húc trên hồ Hoàn Kiếm năm 1896 là một cây cầu gỗ khá thô sơ. Trong lịch sử tồn tại, cây cầu này đã nhiều lần bị gãy và được dựng lại.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Đình Trấn Ba, một công trình thanh thoát trong đền Ngọc Sơn, 1896.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Tháp Rùa năm 1896, nhìn kỹ sẽ thấy trên đỉnh tháp có một bức tượng Nũ thần Tự do phiên bản thu nhỏ.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Ngôi đền phía Bắc trong quần thể đền Ngọc Sơn là nơi thờ danh tướng Trần Hưng Đạo, 1896.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Mặt tiền của đền Quán Thánh cạnh Hồ Tây, Hà Nội năm 1896.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Bờ Hồ Tây, phía trước đền Quán Thánh, ngày nay là nơi đường Thanh Niên chạy qua.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Bốn trụ cột ở lối vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám, 1896. Người Pháp gọi công trình này là “chùa Quạ”, vị có rất nhiều quạ làm tổ ở đây.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Hồ nước đối diện Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Khuê Văn Các nằm ở bên phải bức ảnh.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Đôi hạc ở hai bên ban thờ trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Chùa Một Cột năm 1896.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Khung cảnh nhìn từ trên cầu thang của chùa Một Cột, năm 1896.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Chùa Một Cột năm 1898, trông khá tàn tạ so với bức ảnh chụp 2 năm trước đó.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Nghệ nhân thêu Phan Van Khoan vẽ hình Chùa Một cột để thêu, Hà Nội 1898.

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Thợ thêu Phan Văn Khoan tại nhà mình ở Hà Nội trong ngày Tết, 1898.

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Chân dung chụp năm 1896 của chàng trai 17 tuổi Vi Văn Định – con trai của Tổng đốc Lạng Sơn Vi Văn Lý. Sau này ông Vi Văn Định trở thành Tổng đốc tỉnh Thái Bình (1929-1937) và tỉnh Hà Đông (1937-1941).

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Ông Vi Văn Định cũng là bố vợ của hai người nổi tiếng, đó là Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên và GS Hồ Đắc Di – Hiệu trưởng trường ĐH Y Hà Nội.

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Ba người con khác của Tổng đốc Lạng Sơn (ngồi và đứng trên ghế).

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Tam quan của đền Kiếp Bạc, Hải Dương năm 1904.

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Đàm đông tụ tập nghe xướng danh người trúng tuyển trong kỳ thi Hương Nam Định năm 1897. Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn dành cho mọi đối tượng, người thi đỗ năm sau sẽ lên kinh đô để thi Hội và thi Ðình.

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Thí sinh trúng tuyển diễu hành qua các giám khảo, Nam Định năm 1897.

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Ông Cao Xuân Dục, Tổng đốc Nam Định có mặt trong buổi lễ vinh danh những người đỗ đạt, 1897.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn năm 1895.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Tòa nhà pháp đình ở Sài Gòn năm 1896 (nay là Tòa án Nhân dân TP HCM).
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Dinh Toàn quyền ở Sài Gòn, 1896. Công trình này đã bị hai phi công chế độ Sài Gòn ném bom phá hủy năm 1962, được xây dựng lại và khánh thành năm 1966 (lúc này gọi là Dinh Độc Lập), sau năm 1975 thì đổi tên thành Hội trường Thống Nhất.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Tòa nhà bưu điện Sài Gòn, 1895.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Đại lộ Norodo (nay là đường Lê Duẩn) ở Sài Gòn năm 1896. Phía xa là bức tượng Gambetta

     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Thảo Cầm Viên Sài Gòn, 1895.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Một khách sạn ở Sài Gòn, 1895.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Miếu Thất Phủ của người Hoa ở Chợ Lớn, 1895.
    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890
    Rạch Bến Nghé, Sài Gòn năm 1904.

    Những bức ảnh dưới đây sẽ cho bạn cách nhìn cận cảnh nhất về cuộc sống của ông cha ta hơn 100 năm trước.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Hội thi chim, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Một nông dân ở Hà Nội chở lợn ra chợ bán, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Các chị em đang đãi gạo thổi cơm, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Hình ảnh người dân đang cấy lúa, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Những người ở Hà Nội gánh tre đi bán, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.
     
     
     

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Một gia đình tiêu biểu ở Hà Nội, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Một phú hộ ở Bắc kỳ, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Hớt tóc, lấy ráy tai dạo ở Hà Nội, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Một gánh hàng ăn vặt ở Hà Nội, ảnh chụp khoảng năm 1910.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Lính khố đỏ của triều đình – Một người phụ trách thông tin liên lạc

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Một khúc sông ở Nam Kỳ, ảnh chụp khoảng từ 1898 đến 1905.

    Hình ảnh xưa nhất Việt Nam: thập niên 1890

    Thẻ công nhân của nhà máy dệt Nam Định
  • Khung cảnh Sài Gòn cuối thế kỷ 19

    Khung cảnh Sài Gòn cuối thế kỷ 19

    Hình ảnh Việt Nam xin tổng hợp những bức ảnh xưa về Sài Gòn Gia Định ở cuối thể kỷ 19. Thời cuộc có đổi thay nhưng vẫn còn nguyên giá trị lịch sử – văn hóa.

    Dinh Norodome ( Dinh Độc Lập )

    Ngày 26/2/1962 ,Phi công Nguyễn văn Cử lái máy bay khu trục AD-6 ( Skyraider ) ném bom sập cánh phải của Dinh ( Gia dình Ông Ngô Đình Nhu có một cô con gái tử nạn trong vụ này ). Sau đó Dinh bị phá bỏ hoàn toàn để xây mới thành Dinh Độc Lập – nay là Hội Trường Thống Nhất .

    Đây là bức ảnh xưa nhất của dinh Norodom.  dinh Toàn quyền vừa mới xây dựng xong, khoảng 1875 Palais du Gouverneur Général à Saïgon, Vietnam, circa 1875.  Photo by Emile Gsell
    Đây là bức ảnh xưa nhất của dinh Norodom.
    dinh Toàn quyền vừa mới xây dựng xong, khoảng 1875
    Palais du Gouverneur Général à Saïgon, Vietnam, circa 1875.
    Photo by Emile Gsell
    Dinh Toàn quyền. dinh Norodom. Dinh Độc Lập ( sau này ) (1866)
    Dinh Toàn quyền Norodom (1866)

     Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn

     Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn The Cathedral of Saigon 1888
    Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. The Cathedral of Saigon 1888
     Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn The Cathedral of Saigon 1888
    Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. The Cathedral of Saigon 1882
    CHOLON 1888 - The Chinese district of Saigon  Chợ Lớn - rạch Bến Nghé
    CHOLON 1888 – The Chinese district of Saigon
    Chợ Lớn – rạch Bến Nghé
    Ships on the port of Saigon 1888  tàu trên sông SG
    Ships on the port of Saigon 1888
    tàu trên sông SG

     

     

    CHOLON 1888 - A bridge in the Chinese district of Saigon - Cầu Bình Tây phía trước chợ Bình Tây đầu tiên trong Cholon
    CHOLON 1888 – A bridge in the Chinese district of Saigon – Cầu Bình Tây phía trước chợ Bình Tây đầu tiên trong Cholon
    The Saigon River in Vietnam ca 1870
    The Saigon River in Vietnam ca 1870
    Một chiếc thuyền ba lá đang neo đậu trên con lạch. A stream with a sampan 1888
    Một chiếc thuyền ba lá đang neo đậu trên con lạch. A stream with a sampan 1888
    A quay with vessels moored in Saigon, Vietnam - 1893  Cột cờ Thủ Ngữ
    A quay with vessels moored in Saigon, Vietnam – 1893
    Cột cờ Thủ Ngữ
    Một tàu khách nổi tiếng của Pháp tại bến cảng. The French passenger ship S.S. Sydney of Messageries Maritimes Co. in Saigon, Vietnam - 1893
    Một tàu khách nổi tiếng của Pháp tại bến cảng. The French passenger ship S.S. Sydney of Messageries Maritimes Co. in Saigon, Vietnam – 1893
    La Sainte Enfance par Emile Gsell (ca.1866)  Từ năm 1924 tên gọi “Sainte Enfance” của tu viện này đã được đổi thành “Saint Paul”. Tu viện Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam. Hai nữ tu đầu tiên đến Saigon năm 1860, và tòa nhà được xây dựng xong vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn Trường Tộ. Hình trên của Émile Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây xong. Tòa nhà này sau đó vào cuối thế kỷ 19 được thay thế xây lại như còn lại hiện nay (tháp chuông không còn)
    La Sainte Enfance par Emile Gsell (ca.1866)
    Từ năm 1924 tên gọi “Sainte Enfance” của tu viện này đã được đổi thành “Saint Paul”.
    Tu viện Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam. Hai nữ tu đầu tiên đến Saigon năm 1860, và tòa nhà được xây dựng xong vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn Trường Tộ. Hình trên của Émile Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây xong. Tòa nhà này sau đó vào cuối thế kỷ 19 được thay thế xây lại như còn lại hiện nay (tháp chuông không còn)
    Tu viện Sainte Enfance sài gòn
    Tu viện Sainte Enfance do nhà nhiếp ảnh  tiên phong của Trung Hoa là Pun Ky ( Tân KỲ ) chụp khoảng năm 1860
    Cochinchine: Pagode Barbé, maintenant Ecole normale annamite (Environs de Saigon) - Chùa Khải Tường xưa  Chú thích trên ảnh: "Nam Kỳ: Chùa Barbé, bây giờ là trường sư phạm của người An Nam (Vùng ven Saigon).   Đây là bức ảnh duy nhất còn lưu giữ được của chùa Khải Tường xưa. Bức ảnh do Emile Gsell chụp trong khỏang từ năm 1871-1874. Những người tìm hiểu lịch sử TP Saigon thời Pháp bắt đầu đánh chiếm rất quan tâm đến ngôi chùa này, là một trong bốn ngôi chùa Pháp chiếm để lập thành "chiến tuyến các ngôi chùa" để tấn công đồn Kỳ Hòa của Nguyễn Tri Phương. Vị trí của nó ngày xưa ở khoảng Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, ngày nay không còn lại một dấu vết nào ngoài tấm ảnh này của Gsell.
    Cochinchine: Pagode Barbé, maintenant Ecole normale annamite (Environs de Saigon) – Chùa Khải Tường xưaĐây là bức ảnh duy nhất còn lưu giữ được của chùa Khải Tường xưa. Bức ảnh do Emile Gsell chụp trong khỏang từ năm 1871-1874. Những người tìm hiểu lịch sử TP Saigon thời Pháp bắt đầu đánh chiếm rất quan tâm đến ngôi chùa này, là một trong bốn ngôi chùa Pháp chiếm để lập thành “chiến tuyến các ngôi chùa” để tấn công đồn Kỳ Hòa của Nguyễn Tri Phương. Vị trí của nó ngày xưa ở khoảng Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, ngày nay không còn lại một dấu vết nào ngoài tấm ảnh này của Gsell.

     

    Tombeau de l'Evêque d'Adran (1866)  Lăng mộ Cha Cả. Photo by Emile Gsell
    Tombeau de l’Evêque d’Adran (1866)
    Lăng mộ Cha Cả. Photo by Emile Gsell
    Cảng Nhà Rồng - Saigon 1866 - Vue de l'Etablissement des Messageries Impériales  Photo by Emile Gsell
    Cảng Nhà Rồng – Saigon 1866 – Vue de l’Etablissement des Messageries Impériales
    Photo by Emile Gsell
    Vue de Saïgon en 1866 - cột cờ Thủ ngữ  Photo by Emile Gsell. Cảng Saigon với cột cờ Thủ Ngữ, lúc này chưa có ngôi nhà lớn của ông Vương Thái (sau này xây ở cạnh tòa nhà giữa hình). Bên trái là rạch Bến Nghé.
    Vue de Saïgon en 1866 – cột cờ Thủ ngữ
    Cảng Saigon với cột cờ Thủ Ngữ, lúc này chưa có ngôi nhà lớn của ông Vương Thái (sau này xây ở cạnh tòa nhà giữa hình). Bên trái là rạch Bến Nghé.

    Cùng góc chụp, khi đã có khách sạn của ông Wang Tai (các hình dưới chụp năm 1867):

    Saigon, Cochin China - Photograph by John Thomson, 1867. - Bức ảnh rất lớn cho thấy rõ nhiều chi tiết  Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Saigon, Cochin China – Photograph by John Thomson, 1867. – Bức ảnh rất lớn cho thấy rõ nhiều chi tiết
    Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Cảng Sài Gòn xưa
    Cảng Sài Gòn xưa

     

     ảnh toàn cảnh Sài Gòn xưa. Hình chụp khi chưa có Maison Wang-tai (tòa nhà sau này là trụ sở Quan Thuế)

    ảnh toàn cảnh Sài Gòn xưa. Hình chụp khi chưa có Maison Wang-tai (tòa nhà sau này là trụ sở Quan Thuế)
    Bản đồ Saigon 1867, cùng khoảng thời gian với những bức hình của Emile Gsell (1866).. Plan de la ville de Saigon. Cochinchine 1867 Publisher: Imprimerie impériale. Dressée par le service des Ponts et Chaussées, octobre 1867
    Bản đồ Saigon 1867, cùng khoảng thời gian với những bức hình của Emile Gsell (1866).. Plan de la ville de Saigon. Cochinchine 1867 Publisher: Imprimerie impériale. Dressée par le service des Ponts et Chaussées, octobre 1867

     

    Chợ Lớn Sài Gòn – Thành Phố người Hoa

    Saïgon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    vị trí cây cầu này nay ở trên ĐL Đông Tây. Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa 3
    Vị trí cây cầu này nay ở trên ĐL Đông Tây. Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    Saigon, Cochinchine 1866 Chợ lớn xưa
    1866 Chinese village panorama - Toàn cảnh đoạn kinh Tàu Hủ chảy qua khu vực phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn  Hình ghép 5 tấm ảnh của Emile Gsell chụp cảnh kênh Tàu Hủ đoạn chảy qua phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn năm 1866, cách nay gần 150 năm. Con kinh bên dưới cây cầu ở giữa ảnh ngày nay đã lấp đi thành đường Vạn Kiếp. Nơi cây cầu trong ảnh ngày nay là đầu cầu Chà Và qua kinh Tàu Hủ. Photo by Emile Gsell
    1866 Chinese village panorama – Toàn cảnh đoạn kinh Tàu Hủ chảy qua khu vực phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn
    Hình ghép 5 tấm ảnh của Emile Gsell chụp cảnh kênh Tàu Hủ đoạn chảy qua phía sau Chợ cũ của Chợ Lớn năm 1866, cách nay gần 150 năm. Con kinh bên dưới cây cầu ở giữa ảnh ngày nay đã lấp đi thành đường Vạn Kiếp. Nơi cây cầu trong ảnh ngày nay là đầu cầu Chà Và qua kinh Tàu Hủ. Photo by Emile Gsell
    Cảnh Thành phố của người Hoa (Chợ Lớn). Hình do nhà nhiếp ảnh Pháp Emile Gsell chụp năm 1866.
    Cảnh Thành phố của người Hoa (Chợ Lớn). Hình do nhà nhiếp ảnh Pháp Emile Gsell chụp năm 1866.
    Chợ Sài Gòn xưa. Chợ Lớn. SAIGON - TRAMWAY de la ROUTE BASSE DE CHOLON ET MARCHE DE SAIGON
    Chợ Sài Gòn xưa. Chợ Lớn. SAIGON – TRAMWAY de la ROUTE BASSE DE CHOLON ET MARCHE DE SAIGON
    Saigon 1866 - Photo by John Thomson (BIG PHOTO) - Dãy nhà trên Bến Bạch Đằng ngày nay, phía bên trái là bờ sông Saigon Chưa nhận ra đường nào, nhưng có thể là đường Nguyễn Huệ sau này. Vào thời gian này toàn bộ thành phố đều chưa có điện nên phải thắp sáng buổi tối bằng đèn dầu hỏa. Ngày nay chúng ta khó thể hình dung ra cảnh tối tăm đó như thế nào...
    Saigon 1866 – Photo by John Thomson (BIG PHOTO) – Dãy nhà trên Bến Bạch Đằng ngày nay, phía bên trái là bờ sông Saigon
    Chưa nhận ra đường nào, nhưng có thể là đường Nguyễn Huệ sau này. Vào thời gian này toàn bộ thành phố đều chưa có điện nên phải thắp sáng buổi tối bằng đèn dầu hỏa. Ngày nay chúng ta khó thể hình dung ra cảnh tối tăm đó như thế nào…
    Saïgon Circa 1890 - Bức ảnh góc phố Chợ cũ, Rue d'Adran, cách nay hơn 120 năm  Góc phố Blvd de la Somme và Rue d'Adran. Nay là góc Hàm Nghi - Hồ Tùng Mậu. Tòa nhà giữa ảnh nay là tiệm Như Lan.
    Saïgon Circa 1890 – Bức ảnh góc phố Chợ cũ, Rue d’Adran, cách nay hơn 120 năm
    Góc phố Blvd de la Somme và Rue d’Adran. Nay là góc Hàm Nghi – Hồ Tùng Mậu. Tòa nhà giữa ảnh nay là tiệm Như Lan.
    Saigon, Cochin China -  Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Saigon, Cochin China –
    Gần nơi bìa phải ảnh nhìn thấy tháp nhà thờ dòng nữ tu Thánh Hài Đồng (sau này là Dòng Thánh Phaolô) do Nguyễn Trường Tộ thiết kế và trông coi việc xây dựng. Tháp màu trắng ở gần bờ sông phía bên phải ảnh là ở đầu đường Catinat, phía trước khách sạn Majestic sau này, đó là đài kỷ niệm nhà thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée. Khi chỗ đó được chọn làm bến tàu đường sông thì tháp được dời qua chỗ công trường Mê Linh, ở đầu đường Phan Văn Đạt
    Saigon - Cochin China -1867
    Saigon – Cochin China -1867

     

    Cochin China là gì?

    CochinChina hoặc CochinChine, là tên mà người Phương Tây gọi Nam Kỳ ( lúc đó là 20 tỉnh ). Xem nguồn gốc tên gọi Cochin China.

    Lăng Cha Cả

    Cha Cả tức Giám mục Bá Đa Lộc (Mgr. Pigneau de Béhaine). Mộ ngài trên vùng đất trường ngoại ngữ Dương Minh bây giờ (?)

    SAIGON 1867 - Đường đến Lăng Cha cả với hai hàng cây xoài
    SAIGON 1867 – Đường đến Lăng Cha cả với hai hàng cây xoài

    SAIGON 1867 - Lăng Cha Cả  Cây lớn tro

    SAIGON 1867 - Lăng Cha Cả  Cây lớn trong hình là cây xoài, có vẻ cũng phải được mấy chục năm rồi...
    SAIGON 1867 – Lăng Cha Cả
    Cây lớn trong hình là cây xoài, có vẻ cũng phải được mấy chục năm rồi…
    SAIGON 1867 - Mộ Cha Cả
    SAIGON 1867 – Mộ Cha Cả