Author: Hình ảnh Việt Nam

  • Những người ăn mày ở đất Bắc (thời Pháp thuộc)

    Những người ăn mày ở đất Bắc (thời Pháp thuộc)

    Ăn mày thời xưa

    Những người ăn mày ở đất Bắc (thời Pháp thuộc)

     

    Bốn mẹ con người ăn mày mù lòa
    Bốn mẹ con người ăn mày mù lòa

     

    Các bạn đọc gần xa có các bức ảnh về những người cơ cực thời xưa, mang giá trị lịch sử và văn hóa,.. vui lòng gửi ảnh cho HinhanhVietNam.com hoàn thiện bài viết này nhé!

    Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, từ đời Lý, nhiều năm mưa to, bão lớn khiến ruộng đồng ngập hết. Có năm, nước dâng cao tràn cả vào cửa Đại Hưng (nay là khu vực Cửa Nam) của thành Thăng Long. Nước ngập, lúa và hoa màu không sống nổi, dân đói ăn tràn về Thăng Long và triều đình phải mở kho lương phát cứu đói nhưng cũng không xuể. Đến đời Trần, trước thảm họa do thiên nhiên gây ra, nhà vua đã cho đắp đê quai vạc từ đầu nguồn sông Hồng ra đến cửa biển. Nhưng vì đê thấp, nước lại cao nên lũ lụt vẫn xảy ra.

    Để ngăn đê vỡ, lũ tràn, các vua triều Nguyễn bỏ rất nhiều tiền bạc, công sức để tôn đê lên cao hơn nhưng vẫn không thể trấn trị được thủy thần. Chỉ tính riêng tỉnh Hưng Yên, từ năm 1863 đến 1886, đê Văn Giang vỡ tới 18 lần. Vỡ đê, người dân chỉ còn cách đi xin ăn nên có câu thành ngữ “Oai oái như phủ Khoái xin ăn”. Ca dao tục ngữ Hà Nội xưa cũng có câu: “Đông thành là mẹ, là cha/Đói cơm rách áo thì ra Đông thành”.Chợ Đông thành (tương ứng với các phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Đào… bây giờ) là chợ lớn nhất Thăng Long có từ thời Hậu Lê. Chợ sầm uất, bán buôn đủ các mặt hàng. Ăn mày đến đây luôn được người bán hàng, người đi chợ cho vài chinh, gạo hay cơm. Không chỉ ở chợ Đông thành, Thăng Long còn có 8 chợ lớn khác nằm rải rác ở các phường. Trong “Vũ Trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ viết: “Vào những năm lũ lụt hay mất mùa, dân đói ăn từ các nơi đổ về chợ xin ăn, trông rách rưới và thương tâm, người đi chợ không nỡ ngoảnh mặt đi qua”. Điều đó cũng cho thấy tấm lòng “lá lành đùm lá rách” của người dân đất Kẻ Chợ.

    Đến đời vua Tự Đức, ăn mày dồn về Hà Nội nhiều hơn. Ngoài nguyên nhân mất mùa, còn có nguyên nhân nữa là xã hội giai đoạn này phân hóa ngày càng sâu sắc, dân chúng ở quê đói kém, nợ nần buộc phải bán tư điền cho chức sắc trong làng. Không còn đất canh tác, không có nghề thủ công, họ chỉ còn cách đi ăn mày. Phillip Papine, tác giả của cuốn “Lịch sử Hà Nội” đã viết: “Không còn đất, một bộ phận nông dân trở thành kẻ làm thuê và lang thang ra thành phố xin ăn”.

    Chiếm được Nam kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh chiếm Bắc kỳ. Năm 1873, quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, chiếm được thành rồi lại phải rút, nhưng họ cũng buộc vua Tự Đức phải ký hiệp ước cấp đất cho Pháp mở lãnh sự ở khu Đồn Thủy (nay là khu vực phố Phạm Ngũ Lão). Lại thêm quân Cờ đen quấy phá nên nông dân một số tỉnh bỏ ruộng, buôn bán cũng bị đình trệ làm kinh tế sa sút, nạn đói diễn ra ở nhiều nơi. Trong thư gửi cho Chính phủ Pháp ngày 30-4-1876, Kergaradec, Lãnh sự của khu nhượng địa Đồn Thủy viết: “Cứ 5 ngày một lần, ăn mày ở thành phố và các vùng lân cận, một đội quân thực sự chen nhau ở Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia). Người ta cho từng người vào một và nhận được nửa cân gạo. Sau đó, cả 9 cửa cùng mở để mọi người đi ra. Tuy nhiên, chút gạo bố thí nhỏ nhoi đó vừa đủ một ngày nhưng người ta cũng chỉ phát cho người già, trẻ em, phụ nữ và người tàn tật. Những người đàn ông có vẻ kiếm sống được đều bị đám lính xua đuổi rất kiên quyết. Nhưng lần phát chẩn cuối cùng vẫn còn 22.000 người tới nhận”.

    Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, sau đó tiến hành bình định các tỉnh trung du và miền núi Bắc kỳ, trấn áp phong trào Cần vương. Chiến trận diễn ra ở nhiều tỉnh làm dân hoảng loạn bỏ quê ra Hà Nội. Trong hồi ký “Ở Bắc kỳ – Ghi chép và kỷ niệm” (Au Tonkin – Notes et souvenirs, xuất bản 1925), Bonnal (Công sứ Hà Nội 1883-1885) viết: “Hà Nội bị xâm chiếm bởi hàng nghìn người từ các tỉnh lân cận đổ về. Những toán đàn bà, trẻ con rách rưới bám theo binh lính của chúng ta khi đi dạo trong những phố buôn bán, nơi rất khó vạch ra lối đi ngay khi vung gậy xua đuổi. Quang cảnh của những sự khốn cùng ấy mới chỉ là đáng buồn nhưng khi gặp phải một toán quân hủi đến cản đường trong phố thì một người Âu kém tế nhị nhất cũng phải tháo chạy càng nhanh càng tốt. Người ta nhìn thấy họ nằm lăn ra trên những manh chiếu rách, chân tay vặn vẹo những tư thế kỳ cục, không còn giọng nói để cất lên lời xin bố thí”.

    Đầu thế kỷ XX, ăn mày ngồi la liệt, bày biện đủ thứ hình ảnh đau khổ kêu khóc có bài ở Ô Cầu Dền vì Sở Cẩm không cho ăn mày vào nội thành. Tuy nhiên cũng có người trốn vào nhưng lại bị cảnh sát bắt đem ra cửa ô hay xua đi. Hà Nội phát triển về phía tây và phía nam, chính quyền không ngăn nổi ăn mày. Những năm 1920 đã xuất hiện “Ngõ ăn mày” ở gần Ô Chợ Dừa (nay là ngõ Đoàn Kết phố Khâm Thiên). Họ dựng lều sơ sài bên những vùng lầy lội và hồ ao đầy cỏ dại, ban ngày kéo nhau đi ăn xin, tối về ngủ. Năm 1945, lũ lụt, mất mùa, chiến tranh, quân Nhật bắt phá lúa trồng đay đã khiến dân chết đầy đường Hà Nội. Các hội thiện cùng chính quyền phải đi thu gom xác chết mang chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện (nay là khu vực Nhà máy sợi Hà Nội ở phố Minh Khai).

    ….
    Nguồn: Facebook, báo Hà Nội mới.
  • Bộ ảnh màu cực hiếm về Việt Nam hơn 100 năm trước

    Bộ ảnh màu cực hiếm về Việt Nam hơn 100 năm trước

    Ảnh màu hiếm có về Việt Nam hơn 100 năm trước

    Đầu thế kỷ 20, Albert Kahn đã cử các nhiếp ảnh gia của mình tới hơn 50 quốc gia trên thế giới. Đội ngũ của ông đã thực hiện tổng cộng 72.000 bức ảnh, tạo thành bộ sưu tập lớn nhất từ trước tới nay trong giai đoạn “sơ sinh” của ảnh màu. Họ đã chụp những bức ảnh màu đầu tiên ở các quốc gia xa xôi đối với phương Tây thời đó, trong đó có Việt Nam. Là con người mơ mộng và có tư tưởng quốc tế hóa, ông chủ ngân hàng người Pháp Albert Kahn (1860 – 1940) tin rằng mình có thể tăng cường sự giao thoa văn hóa và hòa bình giữa các dân tộc qua nghệ thuật nhiếp ảnh.

    Năm 1909, Kahn bắt đầu thực hiện dự án “kho ảnh về cuộc sống của con người trên trái đất” để ghi lại những hình ảnh từ nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới bằng hệ thống chụp và xử lý ảnh bằng kính màu màu – phương pháp chụp ảnh màu đầu tiên trên thế giới.

    Albert Kahn đã cử các nhiếp ảnh gia của mình tới hơn 50 quốc gia trên thế giới. Đội ngũ của ông đã thực hiện tổng cộng 72.000 bức ảnh, tạo thành bộ sưu tập lớn nhất từ trước tới nay trong giai đoạn “sơ sinh” của ảnh màu. Họ đã chụp những bức ảnh màu đầu tiên ở các quốc gia xa xôi đối với phương Tây thời đó, trong đó có Việt Nam.

    Năm 1929, sự sụp đổ của phố Wall buộc Kahn phải ngừng dự án. Mặc dù ngân hàng bị phá sản sau cuộc Đại suy thoái nhưng bộ sưu tập của ông vẫn “đứng vững”. Ông qua đời năm 1940 và để lại cho thế giới một bộ sưu tập ảnh màu vô cùng quan trọng, một cuốn lịch sử sống động nhất về cuộc sống con người đầu thế kỷ 20.

    Sau đây là một số hình ảnh về Việt Nam trong các năm 1914 – 1916 trong bộ sưu tập của Albert Kahn, được giới thiệu trên trang BELLE INDOCHINE của Pháp.

    Phố Tràng Tiền ở Hà Nội vào năm 1914 – 1915
    Phố Tràng Tiền ở Hà Nội vào năm 1914 – 1915
    Các vị quan trong phẩm phục nghi lễ ở ngoại vi Hà Nội, 1915.
    Các vị quan trong phẩm phục nghi lễ ở ngoại vi Hà Nội, 1915.
    Quan Thống sứ Bắc kỳ bên người vợ và 4 đứa con, 1915.
    Quan Thống sứ Bắc kỳ bên người vợ và 4 đứa con, 1915.
    Phố Hàng Thiếc ở Hà Nội năm 1915.
    Phố Hàng Thiếc ở Hà Nội năm 1915.
    Cầu Paul Dummer (Long Biên), Hà Nội, 1915.
    Cầu Paul Dummer (Long Biên), Hà Nội, 1915.
    Thuyền trên vịnh Hạ Long, 1916.
    Thuyền trên vịnh Hạ Long, 1916.
    Hòn Gai năm 1915.
    Hòn Gai năm 1915.
    Sông Tam Bạc, Hải Phòng, 1915
    Sông Tam Bạc, Hải Phòng, 1915
    Thuyền bè trên sông Hồng, gần cầu Paul Doumer (Long Biên), Hà Nội năm 1915.
    Thuyền bè trên sông Hồng, gần cầu Paul Doumer (Long Biên), Hà Nội năm 1915.
    Gánh hàng chuối bên bến sông Hồng, Hà Nội 1915
    Gánh hàng chuối bên bến sông Hồng, Hà Nội 1915
    Phố Hàng Gai, Hà Nội 1915.
    Phố Hàng Gai, Hà Nội 1915.
    Hai người đàn ông hút thuốc phiện, 1915.
    Hai người đàn ông hút thuốc phiện, 1915.
    Một con thuyền của người Hoa kiều, 1915.
    Một con thuyền của người Hoa kiều, 1915.
    Cô gái người Hoa hút thuốc phiện, 1915.
    Cô gái người Hoa hút thuốc phiện, 1915.
    Vịnh Hạ Long, 1915.
    Vịnh Hạ Long, 1915.
    Một bà đồng, 1915
    Một bà đồng, 1915
    Một ông đồ bán chữ ở Hà Nội, 1915.
    Một ông đồ bán chữ ở Hà Nội, 1915.
    Những người bán gạo, 1914 – 1915.
    Những người bán gạo, 1914 – 1915.
    Những con thuyền gần một mỏ đồng, 1915.
    Những con thuyền gần một mỏ đồng, 1915.
    Chợ Bắc Lệ, Lạng Sơn, 1915.
    Chợ Bắc Lệ, Lạng Sơn, 1915.
    Làng Nà Chạm ở Yên Bái, gần biên giới với Trung Quốc.
    Làng Nà Chạm ở Yên Bái, gần biên giới với Trung Quốc.
    Một ngôi chùa trên đường đến Tam Đảo, 4/1916.
    Một ngôi chùa trên đường đến Tam Đảo, 4/1916.
    Các hương chức gần Hà Nội.
    Các hương chức gần Hà Nội.
    Mỏ than Hòn Gai, 1915.
    Mỏ than Hòn Gai, 1915.

    Hình Ảnh Việt Nam sao chép từ Gocsuyngam

  • Xe kéo ngày xưa

    Xe kéo ngày xưa

    Xe kéo là một phương tiện di chuyển rất hợp thời trang vào lúc xưa. Xin đọc bài viết về lịch sử của chiếc xe kéo để nắm thêm chi tiết.

    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Saigon
    Phu kéo xe ở Saigon
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Phu kéo xe ở Hà Nội
    Đội xe kéo ngày xưa
    Đội xe kéo ngày xưa
    Xe kéo ngày xưa
    Xe kéo ngày xưa
    Xe kéo ngày xưa
    Xe kéo ngày xưa
    Phu Xe kéo Sài Gòn xưa
    Phu Xe kéo Sài Gòn xưa
    Xe kéo Sài Gòn xưa
    Xe kéo Sài Gòn xưa
    Xe kéo Sài Gòn xưa
    Xe kéo Sài Gòn xưa
    Xe kéo tại Lạch Tray
    Xe kéo tại Lạch Tray

    Những người đàn bà làm phu kiệu

    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ Sơn
    Phu kiệu ngồi nghỉ
    Phu kiệu ngồi nghỉ

     

  • Từ xe kéo đến xe xích-lô

    Nguồn gốc của chiếc xe kéo cũng như quá trình cải tiến thành xe xích lô.

    Vào đầu thế kỷ thứ 21 nầy, bất cứ người du khách nào đến Hà-Nội hay Sàigon lần đầu tiên đều bị ấn tượng bởi sự lưu thông dầy đặt trong trung tâm thành phố.

    Thật là một cảnh tượng khó quên khi nhìn diễn cảnh những chiếc xe Honda, xe đạp qua lại không ngừng như những vạt sóng biển, bên cạnh những chiếc xe xích-lô và xe hơi. Trong hoàng cảnh này, khó mà tưởng tượng được vai trò đóng góp lớn lao của chiếc xe kéo – nay đã vào dĩ vãng – và kẻ nối nghiệp của nó là chiếc xe xích-lô trong sự văn minh hóa của nước Việt Nam.

    Người ta thường cho rằng xe kéo đã ra mắt chào đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị của Nhật bổn, năm 1868 : khi những người lớn tuổi được người làm kéo đi như thế trong lúc cần di chuyển. Từ đó, dưới cái tên Rickshaw hay Rickish, nó trở thành một phương tiện lưu thông mà người thực dân Anh ở Hồng Kông rất thích và nó từ từ lan tràn khắp Đông Nam Á tới tận Ấn-Độ và vùng biển Ấn-Độ-Dương.

    Từ xe kéo đến xe xích-lô
    Người ta thường cho rằng xe kéo đã ra mắt chào đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị của Nhật bổn
    Từ xe kéo đến xe xích-lô
    Từ xe kéo đến xe xích-lô

    Ở Đông Dương, vài chiếc xe kéo được xuất hiện lần đầu tiên tại Hà-Nội năm 1883 do Ông Toàn Quyền Đệ Nhất Bonnal đã cho phép đem từ bên Nhật qua. Gần 15 năm sau Sài Gòn mới biết tới loại xe kéo nầy, ở đây phương tiện di chuyển duy nhất là chiếc xe ngựa kéo mà người Pháp gọi là Malabar hay Boîte d’allumettes.

    Vào năm 1884, một nhà thầu Pháp cho chế tạo khoảng 50 chiếc xe kéo cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã từ từ trở thành một bộ mặt quen thuộc trong thành phố Hà-Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi Âu Châu đầu tiên và một năm trước xe tramway kéo bằng ngựa. Liền sau đó, một nhân viên thuế vụ từ miền Nam tới đã nghĩ ra thành lập một hảng cho thuê xe kéo. Theo trí nhớ của các người xưa thì chuyện đó là một thành công rực rở : dù mướn giờ hay mướn ngày, cũng phải giữ chổ trước một ngày nếu muốn được chở đi.

    Ngay cả sau Đệ Nhất Thế Chiến cũng chỉ có khoãng 30 chiếc xe kéo công cộng trong cả thành phố Hà-Nội. Chỉ có vài nhân viên Pháp và quan lớn của Hà-Nội mới có đủ phương tiện mua riêng một chiếc xe kéo. Đa số người Hà-Nội chỉ biết đi bộ -nghĩa là đi chân không- là phương tiện di chuyển tiện nhất. Lúc đó chiếc xe kéo được kéo bởi một người «cu-li» và đôi khi được thêm hai người khác đẩy. Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi kế bên người phu kéo, tay cầm ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi trên xe là phụ nữ.

    Chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, cho nên chạy không được yên lắm. Dù vậy phương tiện nầy biểu hiệu cho sự giàu có và uy quyền của chủ xe. Lúc nào cảnh người phu kéo ông chủ ngồi trên xe đi qua cũng gây ra sự hiếu kỳ cho đám đông. Vào thời đó, tất cả những gì do Tây đem tới đều được dân chúng cho là văn minh. Những cô thiếu nữ Hà-Nội không dám ngồi trên xe kéo vì sợ miệng đời chê là Me Tây, có nghĩa là lấy chồng Tây. Với sự tiến bộ, sau đó bánh xe bằng xắt được thay thế bằng bánh xe cao-su đặc, tiện nghi hơn cho người ngồi trên xe. Chỉ lúc bấy giờ những cô thiếu nữ Hà-Nội mới dám xài xe kéo với bánh xe bằng sắt, còn loại tân tiến với bánh xe bằng cao-su thì dành riêng cho người Việt lấy Tây. Và những xe kéo lỗi thời với bánh xe sắt đã từ từ bị đẩy ra vùng ngoại ô Hà-Nội. Ngay cả những xe kéo với bánh cao-su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của nhà hành OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng aluminium trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường.

    Nhiều năm sau Đệ Nhất Thế Chiến, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy chiếc xe đạp –nhập từ Saint Etienne- lần đầu tiên trong trung tâm thành phố : Cái dụng cụ gì kỳ quá ? Không có ngưạ kéo cũng không cần cu-li đẩy ! Chỉ cần đạp vài cái là nó chạy một cách yên lặng không mệt nhọc. Có người lanh trí đã nghĩ ra cách gắn nó vào phía sau của chiếc xe kéo, thế là chiếc xe xích-lô đã ra đời : việc nầy không làm cho chiếc xe kéo biến liền, nhưng xe xích-lô đã nối nghiệp xe kéo, đóng vai trò quan trọng trong sự có mặt của văn minh.

    Từ xe kéo đến xe xích-lô
    Từ xe kéo đến xe xích-lô
    Từ xe kéo đến xe xích-lô
    Từ xe kéo đến xe xích-lô

    Tượng trưng cho một nền văn minh ngoại nhập, chiếc xe kéo cũng như kẻ nối nghiệp của nó là là xe xích-lô đều là sản phẩm của một xã hội dựa trên sự phân biệt chủng tộc và giai cấp. Cả hai loại xe đều tồn tại tới năm 1945, năm mà chánh phủ cách mạng miền Bắc cấm bỏ lối vận chuyển nầy vì coi đó là hình thức người bóc lột người của dân thuộc địa. Sau bao năm khói lửa, chiếc xe xích-lô xuất hiện trở lại trên thị trường nhưng nó đã bị chiếc xe hơi chiếm đi cái hình ảnh tiến bộ mà nó đã có lúc trước.

    Phạm Trọng L

     

  • Đèo Hải Vân -Thiên hạ đệ nhất hùng quan

    Hình ảnh khai phá và xây dựng cung đường đèo Hải Vân

    Đèo Hải Vân còn có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh đèo xưa kia có một cửa ải) hay đèo Mây (vì đỉnh đèo thường có mây che phủ), cao 500 m (so với mực nước biển), dài 20 km, cắt ngang dãy núi Bạch Mã (là một phần của dãy Trường Sơn chạy cắt ra sát biển) ở giữa địa giới tỉnh Thừa Thiên-Huế (ở phía Bắc) và thành phố Đà Nẵng (ở phía Nam), Việt Nam.

    Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ (1306), vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa (còn gọi là Chiêm Thành). Sau khi được vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn Công chúa Huyền Trân đời Trần vào năm vừa kể (1306), thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.

    Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ (dưới triều Hồ Hán Thương) sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, khiến vua nước ấy là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Lũy để cầu hòa.
    Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân mới thuộc hẳn về nước Đại Ngu (tức Việt Nam ngày nay), và trở thành ranh giới tự nhiên của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, như sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã chép: “Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam”.

    Vào thời Nguyễn, đèo Hải Vân vẫn là chỗ giáp giới giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Phía bắc chân núi giáp vực biển có hang Dơi, tục gọi là bãi Tiêu. Tương truyền xưa có thần sóng, thuyền đi qua đó thường bị lật chìm, nên ngạn ngữ có câu: “Đường bộ thì sợ Hải Vân/ Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi”

     

  • Xe hơi của người Việt Nam thời Pháp thuộc

    Tạm lánh khỏi những lớp sóng dồn của lịch sử ấy mà mạo muội mạn đàm tới góc độ nhỏ của văn hoá, cụ thể là ô tô, xe hơi, cỗ máy cơ khí xa lạ với người An Nam thời bấy giờ, nhưng là một phần của phương Tây hiện đại tới Việt Nam lần đầu tiên tại Nam Kỳ năm 1907. Chiếc xe thứ nhất xuất xưởng mang số 1 về tay một người Pháp. Vậy ai là người Việt Nam đầu tiên có xe hơi? Theo tư liệu do người pháp lưu giữ thì Người An Nam đầu tiên có xe hơi được ghi lại trong sử sách chính là Thầy Năm Tú, sở hữu chiếc xe số 2 vào Việt Nam, chỉ sau người Pháp. Ông Châu Văn Tú, có tên Tây Pierre Tú, biệt danh “Thầy Năm Tú”, gốc gác Mỹ Tho là người “An Nam” sắm xe hơi đầu tiên ở Nam Kỳ năm 1907.
    Ông là người đầu tiên ở Mỹ Tho lập gánh hát cải lương mang tên “Ban hát Thầy Năm Tú – Mỹ Tho” một thời gây sôi nổi khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Giữa lúc đường phố Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ còn nhan nhản xe kéo tay, đào kép danh tiếng nay đã tìm lối “chơi sang” riêng cho mình, tiếp theo gương “thầy Năm Tú”, chiếc số 7 và số 8 về xứ “An Nam” là của ông Nguyễn Minh Tho ở Gò Công, số 10, số 11 và 12 là của ông Lê Phát Tân. Ông Tân là em ruột ông Lê Phát Đạt biệt danh “Huyện Sĩ”, ông ngoại của Nam Phương Hoàng hậu, vợ vua Bảo Đại. Thời đó, Báo Phụ Nữ Tân Văn số 207 ngày 6.7.1933 viết: “… Coi bộ trong ba người “An Nam” sắm xe hơi trước nhứt thì cũng đã thấy nhà giàu Nam Kỳ ta xài lớn. Xe mới có mà ông Tho mua một lần hai cái, ông Tân lại mua tới 3 cái một lần, xài lớn thiệt”.

    Xe tay bên cạnh xe Tây ở Sài Gòn,đấy là những “anh Hai” chơi xe đầu tiên ở Nam Kỳ. Trung Kỳ có xe hơi năm 1913, người đầu tiên mua xe hơi đất Trung Kỳ là ông Nguyễn Văn Đương ở Thanh Hóa. Đây cũng là năm chiếc xe hơi đầu tiên xuất hiện tại Bắc Kỳ. Ông Bạch Thái Bưởi ở Hà Nội là người đầu tiên có xe hơi xứ Bắc, xe hơi làm quen với vựa lúa Đông Dương đầu tiên là hiệu Clément rồi mới tới các hãng: Peugeot, Comtal, Griffon, Cottereau, Bolide, Panhard, Aleyon, Darracq, Diérich, Richard, De Dion, Berliet, Foullaren, Saving, Zidel…Cho đến năm 1920 thì hãng Citroen mới biết xứ Nam Kỳ và theo một số tài liệu còn lưu giữ lại, “… Năm mới có xe hơi ở đất Nam Kỳ thì trọn năm đầu bán được lối 14 cái. Năm thứ nhì lối 60 cái. Năm thứ ba lối 30 cái, năm thứ tư khoảng 50 cái. Mấy năm đầu thì cũng không lên xuống gì mấy. Qua tới năm 1919 là lúc vừa xong cuộc Âu chiến lần thứ nhứt, thì số xe hơi nhập vào Sài Gòn bốc lên như lửa cháy. Đang ở số mấy chục, bỗng nhảy lên số mấy trăm. Năm 1920 tại Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tính chung bán cũng được khoảng ba bốn trăm cái. Đến năm 1926, thì toàn cõi Đông Dương (Việt, Miên, Lào) cũng chưa tới một ngàn chiếc xe.”

    Nói về thú chơi xe, vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là của nước Việt Nam, tỏ ra “sành điệu” hơn cả, là một con rối về chính trị, nhưng Bảo Đại rất thành thạo các lĩnh vực ăn chơi, từ nhảy đầm, đánh gôn, đến sưu tầm ôtô, máy bay, du thuyền. Daniel Grandclément, tác giả cuốn Bảo Đại – Hay Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An Nam hóm hỉnh so sánh sở thích của Vua Louis XVI nước Pháp với ông vua cuối cùng của triều Nguyễn: “Louis XVI thì mê các ổ khóa, còn Bảo Đại thì thích hí hoáy hàng giờ với động cơ ôtô”, bộ sưu tập ôtô của Bảo Đại thời đó toàn những xe đắt tiền, ấn tượng và hiện đại nhất: 1chiếc Mercedes lớn, nặng 4 tấn, có kính dày 3 cm, vỏ chống được đạn 8 ly của tiểu liên và súng máy; 4 chiếc Limouzin; 1 chiếc Citrôen động cơ bánh trước; những chiếc xe thể thao hiệu Ferrari hay Bentley. Ngoài ra ông còn là chủ sở hữu của nhiều máy bay và du thuyền.

    Ông là người có năng khiếu, lái xe giỏi và nhanh, thoải mái, bình tĩnh mỗi khi tăng tốc độ, biết sử dụng tính năng của động cơ, không mất thời gian để gây ấn tượng như những tay chơi kiểu cách nhưng đôi khi cũng suýt gây tai nạn khi quành một chỗ rẽ.”
    Trên đường phố “ngựa người, người ngựa”, những những phu xe oằn mình kéo xe tay, ông hoàng An Nam đã có Mercedes tung hoành, thế mới biết, chơi xe, sưu tập xe đâu chỉ là chuyện ở phương Tây mà đã nở rộ ở Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc.

    Theo: FB/ Sài Gòn xưa

  • Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906

    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906

    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906

    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ do ông Viang (người đứng một mình hàng trên cùng) làm làm trưởng đoàn, tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906
    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ do ông Viang (người đứng một mình hàng trên cùng) làm làm trưởng đoàn, tại Hội chợ triển lãm Marseille 1906
    Hội chợ triển lãm Thuộc địa Marseille 1906 - Ban nhạc của Nhà nghỉ Thượng khách xứ Nam Kỳ.
    Hội chợ triển lãm Thuộc địa Marseille 1906 – Ban nhạc của Nhà nghỉ Thượng khách xứ Nam Kỳ.
    Người đứng giữa chống nạnh chính là ông Nguyễn Tống Triều. Người mặc áo đen bên trái là trưởng đoàn, ông 'Viang'
    Người đứng giữa chống nạnh chính là ông Nguyễn Tống Triều. Người mặc áo đen bên trái là trưởng đoàn, ông ‘Viang’
    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tham dự Hội chợ Marseille 190
    Ban nhạc tài tử Nam Kỳ tham dự Hội chợ Marseille 190
    L'INDOCHINE 1906 - Les acteurs, actrices et figurants du théâtre indo-chinois à l'Exposition de Marseille
    L’INDOCHINE 1906 – Les acteurs, actrices et figurants du théâtre indo-chinois à l’Exposition de Marseille
    Gánh hát bội của xứ Đông Dương
    Gánh hát bội của xứ Đông Dương
    L'INDOCHINE 1906 - Le Jeune Li-Nhan
    L’INDOCHINE 1906 – Le Jeune Li-Nhan
    Exposition Coloniale Paris 1931
    Exposition Coloniale Paris 1931
    Nhóm múa Bắc Kỳ tại Đấu xảo Thuộc địa Quốc tế Paris 1931  1931 Groupe de danseurs (Tonkin) à Exposition coloniale internationale de Paris (1931). Photo by Paul Pivot
    Nhóm múa Bắc Kỳ tại Đấu xảo Thuộc địa Quốc tế Paris 1931
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin) à Exposition coloniale internationale de Paris (1931). Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)  Danse se faisant également pendant une procession rituelle pour obtenir la pluie ou tout autre bienfait. Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)
    Danse se faisant également pendant une procession rituelle pour obtenir la pluie ou tout autre bienfait. Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)  Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)
    Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)  Photo by Paul Pivot
    1931 Groupe de danseurs (Tonkin)
    Photo by Paul Pivot
     Joueurs de flûte traversière - Nhạc công thổi sáo
    Joueurs de flûte traversière – Nhạc công thổi sáo
    Joueurs de vièles Dàn Nhi (vièles à deux cordes) - Nhạc công chơi đàn nhị
    Joueurs de vièles Dàn Nhi (vièles à deux cordes) – Nhạc công chơi đàn nhị
    Ban nhạc bát âm: 4 cây sáo trúc, 2 cây đàn nhị, một trống cơm và một nhạc cụ gõ tên là "xênh tiền"
    Ban nhạc bát âm: 4 cây sáo trúc, 2 cây đàn nhị, một trống cơm và một nhạc cụ gõ tên là “xênh tiền”
    Người chơi trống tiểu và trống trung  Joueur de tambour Tièu Cô (à gauche) et de tambour Trong Com (à droite) (petit et moyen tambours).Người chơi trống tiểu và trống trung  Joueur de tambour Tièu Cô (à gauche) et de tambour Trong Com (à droite) (petit et moyen tambours).
    Người chơi trống tiểu và trống trung
    Joueur de tambour Tièu Cô (à gauche) et de tambour Trong Com (à droite) (petit et moyen tambours).
    Người chơi xênh tiền  Joueur de Xênh-trên -   "Xêng tiền" là một loại nhạc cụ gõ của người Mường, nhịp điệu Xêng tiền là một trong những tiết tấu cơ bản của âm nhạc dân gian dân tộc Mường
    Người chơi xênh tiền
    Joueur de Xênh-trên –
    “Xêng tiền” là một loại nhạc cụ gõ của người Mường, nhịp điệu Xêng tiền là một trong những tiết tấu cơ bản của âm nhạc dân gian dân tộc Mường
    Joueur de monocorde : M. Nguyen Song. Instrument monocorde;Dàn Kinh dôc huyên
    Joueur de monocorde : M. Nguyen Song. Instrument monocorde;Dàn Kinh dôc huyên
    M. Kim-Chi, chanteur
    M. Kim-Chi, chanteur
    M. Huyen-U, chanteur
    M. Huyen-U, chanteur
    Un groupe de musiciens annamites 1900-1926
    Un groupe de musiciens annamites 1900-1926
    Đoàn hát bội ở hội chợ triển lãm thuộc địa Marseille 1906
    Đoàn hát bội ở hội chợ triển lãm thuộc địa Marseille 1906
    Đoàn nghệ sĩ xứ thuộc địa Nam Kỳ đi dự Hội chợ Marseille 1906 tại Pháp
    Đoàn nghệ sĩ xứ thuộc địa Nam Kỳ đi dự Hội chợ Marseille 1906 tại Pháp

     

    Ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống Triều dự Hội chợ thuộc địa Marseille 1906 tại Pháp
    Ban nhạc tài tử của ông Nguyễn Tống Triều dự Hội chợ thuộc địa Marseille 1906 tại Pháp
    Ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu ngôi đình truyền thống này do tỉnh Thủ Dầu Một thực hiện cho xứ Nam Kỳ tham dự Hội chợ Thuộc địa Marseille 1906, và kế tiếp là Hội chợ Thuộc địa Nogent-sur-Marne năm 1907. Ngôi nhà sau đó được chính phủ Pháp mua lại và năm 1917 đã giao cho tổ chức Kỷ niệm Đông Dương dùng làm Đền Kỷ niệm các binh sĩ Đông Dương hy sinh cho nước Pháp trong Đệ nhất Thế chiến. Ngày 9-6-1920 Đền Kỷ niệm Đông Dương đã được khánh thành. Do chất lượng nghệ thuật của tòa nhà, năm 1965 công trình đã được đưa vào danh mục các công trình lịch sử, nhưng vì công việc bảo trì không được làm đầy đủ, sau một thời gian dài tòa nhà đã bị hư hỏng đáng kể. Một chương trình trùng tu đã được lên kế hoạch vào năm 1983, tuy nhiên khi công việc vừa mới khởi sự thì tòa nhà đã bị thiêu hủy hoàn toàn vì một vụ cố ý gây hỏa hoạn..
    Ngôi nhà có kiến trúc theo kiểu ngôi đình truyền thống này do tỉnh Thủ Dầu Một thực hiện cho xứ Nam Kỳ tham dự Hội chợ Thuộc địa Marseille 1906, và kế tiếp là Hội chợ Thuộc địa Nogent-sur-Marne năm 1907. Ngôi nhà sau đó được chính phủ Pháp mua lại và năm 1917 đã giao cho tổ chức Kỷ niệm Đông Dương dùng làm Đền Kỷ niệm các binh sĩ Đông Dương hy sinh cho nước Pháp trong Đệ nhất Thế chiến. Ngày 9-6-1920 Đền Kỷ niệm Đông Dương đã được khánh thành. Do chất lượng nghệ thuật của tòa nhà, năm 1965 công trình đã được đưa vào danh mục các công trình lịch sử, nhưng vì công việc bảo trì không được làm đầy đủ, sau một thời gian dài tòa nhà đã bị hư hỏng đáng kể. Một chương trình trùng tu đã được lên kế hoạch vào năm 1983, tuy nhiên khi công việc vừa mới khởi sự thì tòa nhà đã bị thiêu hủy hoàn toàn vì một vụ cố ý gây hỏa hoạn..
    Cochinchine - Saigon - Groupe de Musiciens au Repos
    Cochinchine – Saigon – Groupe de Musiciens au Repos

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  • Cộng đồng người Hoa thời xưa tại Sài Gòn Chợ Lớn

    Cộng đồng người Hoa thời xưa tại Sài Gòn Chợ Lớn

    Lịch sử Trung Quốc và Việt Nam rất gắn liền nhau, sự hiện diện của người Hoa trên đất Việt đã có từ ngàn xưa, người dân Trung Quốc rất giỏi về buôn bán, họ hay sống chung đoàn tụ lại với nhau. “Chợ Lớn” là khu phố người Hoa rất lớn ở Saigon, cũng giống như là quận 13 của Paris vậy.

    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Cộng đồng người Hoa
    Phái đoàn Trung Quốc
    Phái đoàn Trung Quốc
    Chợ lớn thuở sơ khai
    Chợ lớn thuở sơ khai
    Thợ sửa giày
    Thợ sửa giày
    Bán hủ tiếu
    Bán hủ tiếu
    Ðám ma
    Ðám ma
    Back to the Future
    Back to the Future
    Hút thuốc phiện
    Hút thuốc phiện
    Ðang làm vịt quay
    Ðang làm vịt quay
    Ðoàn hát Quảng
    Ðoàn hát Quảng
    Nhà hát người Tàu
    Nhà hát người Tàu
    Chùa Tàu
    Chùa Tàu
    Một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Ðường Canton trong Chợ lớn
    Ðường Canton trong Chợ lớn
    Hút thuốc (phiện, thuốc lào)
    Hút thuốc (phiện, thuốc lào)
    Hút thuốc phiện
    Hút thuốc phiện
    Gia đình giàu người Hoa
    Gia đình giàu người Hoa
    Bán thuốc rong
    Bán thuốc rong
    Một nhà sư người Tàu
    Một nhà sư người Tàu
    Nam nghệ sĩ
    Nam nghệ sĩ
    Nữ nghệ sĩ
    Nữ nghệ sĩ
    Một cô gái Nûng
    Một cô gái Nûng
    Một người Hoa trung lưu
    Một người Hoa trung lưu
    Đám rước
    Đám rước
    Đám múa lân, Cholon_la_procession_du_dragon
    Đám múa lân
    Đốt pháo ở Chợ Lớn, Cholon_tir_des_petards_n49
    Đốt pháo ở Chợ Lớn
    Bên trong một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Bên trong một ngôi chùa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Chợ Lớn
    Một gia đình người Hoa ở Lào Kay
    Một gia đình người Hoa ở Lào Kay
    Tiệm bán thịt
    Tiệm bán thịt
    Thương mại
    Thương mại
    Thợ máy người Hoa
    Thợ máy người Hoa
    Tập tục bó chân của người Hoa
    Tập tục bó chân của người Hoa

     

     

     

  • Đỗ Hữu Vị – phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân

    Đỗ Hữu Vị – phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân

    Kỷ niệm 100 năm – Lính Việt trong Thế Chiến Thứ Nhất 1914-1918: Đại Úy Đổ Hữu Vị (1883-1916) cũng là phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân. (nguồn hình: St.-Cyr Coetquidan, Frères d’Armes).

    Đỗ Hữu Vị - phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân
    Đại úy Đổ Hữu Vị và sổ quân bạ mang số 107.924

    Đỗ Hữu Vị - phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân

    Đỗ Hữu Vị - phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân

    Xin mời xem một video Youtube ngắn (2 phút) về Đỗ Hữu Vị vừa được chiếu trên TV Pháp. Năm 2012, Pháp kỷ niệm 100 năm Thế chiến 1 nên có nhiều hình ảnh đặc biệt.
    Đỗ Hữu Vị (1883 – 1916) là con trai của Đỗ Hữu Phương (còn gọi là Tổng đốc Phương), một điền chủ giàu có lừng lẫy tiếng tăm ở Nam Kỳ khi người Pháp mới chiếm miền Nam.
    Sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Lasan Taberd (Sài Gòn), Đỗ Hữu Vị được cha gửi qua Pháp du học tại trường Collège St.Barbe ở Paris, nói và viết Pháp văn như người Pháp. Sau 3 năm ra trường, ông xin theo học không quân tại Trường Võ bị Saint-Cyr của Pháp. Sau đó một năm, ông đã có được bằng lái máy bay do Aéroclub de France cấp và tham gia quân đội Pháp.
    Lúc bấy giờ thế giới mới phát minh máy bay nên lái máy bay được xem là rất phi thường. Tạp chí Nam Phong số tháng 2-1920 có bài viết nói rằng, Đỗ Hữu Vị là một trong những người đầu tiên bay vòng quanh nước Pháp. Khi máy bay hiệu Gaudron được đem ra thử nghiệm, ông là người đầu tiên lái thử. Khi bay lên độ cao 300m thì máy bay rơi, nhưng ông may mắn thoát chết.
    Ông làm phi công tác chiến trong phi đoàn ở Maroc. Để cổ vũ tinh thần người dân thuộc địa phục vụ cho “mẫu quốc”, Pháp gửi ông về Việt Nam lái máy bay biểu diễn ở Sài Gòn và Hà Nội, dân chúng khâm phục, hãnh diện và bàn tán sôi nổi một thời.
    Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914-1918) bùng nổ, ông trở lại Pháp tham gia đánh Đức. Trong một lần giao tranh tại sông Somme, ông bị thương nặng rồi chết, được tưởng thưởng nhiều huy chương và truy thăng đại úy. Pháp cho in hình ông trên con tem phát hành khắp Đông Dương, lấy tên ông đặt cho nhiều trường học *, nhiều đường phố ở Việt Nam thời đó.
    Nhiều tài liệu cho rằng Đỗ Hữu Vị “là người Việt Nam đầu tiên lái máy bay chiến đấu, tham gia Thế chiến thứ nhất trong quân đội Pháp” như bài viết “Nhì Phương” trong tứ đại phú (trong loạt bài Những nhân vật “Sài Gòn đệ nhất”) đăng trên báo Thanh Niên số ra ngày 24-8-2010.
    Đây là người phi công đầu tiên của VN , Đỗ Hữu Vị (1881-1916) trên máy bay Blériot, ông là con của Tổng Đốc Phương .Có vài trang web giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Đỗ Hữu Vị, như trang Diễn đàn về Thế chiến thứ nhất (Forum pages 14-18 tại địa chỉ http://pages14-18.mesdiscussions.net, viết bằng tiếng Pháp). Trang này cho biết, với những công lao đóng góp thành công như một nhà tiền phong cho không quân tại Maroc (1912-1913), ông đã được đặt tên cho một con đường tại Casablanca – thành phố được coi là thủ đô kinh tế ở miền tây Maroc, nằm trên bờ Đại Tây Dương. Trang này cũng nhắc lại câu nói của ông lúc sinh thời: “Il me faut être doublement courageux, car je suis à la fois Français et Annamite”. (“Sự can đảm của tôi phải cần gấp đôi người thường, vì tôi vừa là dân Pháp, vừa là dân Việt”.
    Đỗ Hữu Vị - phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân
    Loại máy bay Caudron G-3 trong Đại chiến thứ nhất, do Đỗ Hữu Vị lái
    Đỗ Hữu Vị - phi công Việt đầu tiên trong lịch sử Không Quân
    Phiếu ghi nơi tử trận tại làng Dompierre (Picardie) năm 1915 của Đỗ Hữu Vị.

     

    HinhanhVietNam.com tổng hợp từ internet

  • Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam

    Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam

    Tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân NamTuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam là tuyến đường sắt nối Hải Phòng với thành phố Côn Minh, thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tuyến đường sắt khổ hẹp (1,1 m) này được xây vào thời kỳ Pháp thuộc và hoàn thành năm 1910.

    Lịch sử

    Công việc khởi đầu năm 1901 và kéo dài đến năm 1910, băng qua những vùng núi cao vực sâu hết sức hiểm trở.

    Ít nhất có 12.000 trên tổng số 60.000 công nhân bản địa và khoảng 80 người châu Âu đã chết trong thời gian xây dựng tuyến đường sắt, trong đó nhiều người chết vì bệnh sốt rét. Để vượt chênh lệch độ cao 1.900m giữa Hải Phòng và Côn Minh, đoàn thi công phải bắc 173 cây cầu và đào 158 đoạn đường hầm xuyên núi.

    Lộ trình và hoạt động

    Tuyến đường sắt này dài 855 km, trong đó 390 km nằm trên lãnh thổ Việt Nam (từ Hải Phòng lên đến Lào Cai), và 465 km trên lãnh thổ Trung Quốc (từ Hà Khẩu lên đến Côn Minh). Thời gian xây dựng tuyến đường sắt này được xây dựng trong vòng 10 năm, từ 1901 đến 1910,

    Xe lửa chạy tuyến đường này hoạt động đến năm 2000 thì phía Trung Quốc đình chỉ nên sau đó xe từ Hải Phòng lên phải dừng ở Lào Cai. Đoạn đường bên Trung Quốc bỏ hoang.

    Vì là đường rầy khổ hẹp, chính phủ Trung Quốc đã có kế hoạch đến năm 2015 sẽ xây dựng lại chặng đường sắt từ Côn Minh đến biên giới Việt Nam theo khổ tiêu chuẩn quốc tế (1,435m), tạo cơ sở cho việc lập một tuyến đường sắt liên Á theo kế hoạch sẽ nối từ Côn Minh đến Singapore.

    Nguồn tư liệu : http://vi.wikipedia.org/wiki/Tuyến_đường_sắt_Hải_Phòng_-_Vân_Nam

    Hình ảnh quá trình xây dựng Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam

     

     

  • SaPa – Lào Cai thời Pháp thuộc

    Năm 1903, trong chuyến đi thực tế ở Lào Cai để lập bản đồ, đoàn trắc địa của Sở Địa lý Đông Dương đã phát hiện ra một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp và khí hậu dễ chịu trên cao nguyên Lồ Suối Tủng (cao nguyên Sa Pa) thuộc dãy Hoàng Liên Sơn. Ngay lập tức người ta nảy ra ý tưởng xây dựng ở nơi đây một trại điều dưỡng. Tuy nhiên, ý tưởng này phải đến năm 1909 mới được Công sứ tỉnh Lào Cai Toures đề xuất. Mieville là người Pháp đầu tiên đến ở Sa Pa vào tháng 7 năm 1909 tại vị trí sau này xây dựng khách sạn Metropole.

    Ngay sau đó, có rất nhiều bài nghiên cứu về Sapa, đặc biệt là bài “Khu nghỉ dưỡng” của Hautefeuille trên tạp chí Đông Dương năm 1910 có đoạn viết “Tôi hoàn toàn bị quyến rũ ngay từ chuyến đi Sa Pa lần đầu tiên. Con đường dẫn đến Sa Pa chạy qua khu vực có phong cảnh tuyệt đạp. Hai phần ba quãng đường xuyên rừng với vẻ đẹp hiếm thấy… Thung lũng giữa dãy Phanxipăng và cao nguyên Sa Pa (còn gọi là cao nguyên Lồ Suối Tủng) đẹp như thể thung lũng của dãy Pyrenees ở Tây Ban Nha…”.

    Cảnh đẹp Sa Pa đã thu hút rất nhiều người Pháp đến đây. Năm 1910, đoàn lính lê dương đầu tiên đến để mở đường và lập trại lính. Đến 1919 trại điều dưỡng dành cho quân đội đã được xây dựng. Từ 1910 đến 1920, đã có 6 toà nhà được xây dựng. Năm 1920-1930, Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, 3 khách sạn (Fansipan, Vaumousse, Morellon) và 28 ngôi nhà được xây dựng. Năm 1930-1940, 26 biệt thự, 1 nhà thờ và khách sạn Métropole được xây dựng. Năm 1940-1943, 8 biệt thự và 10 toà nhà được hoàn thành. Ngoài các công trình lớn, cho đến 1943 có rất nhiều công trình nhỏ khác. Cùng với việc xây dựng các công trình trên, người Pháp đã hoàn thiện hệ thống cung cấp điện, nước cho khu vực này. Hiện nay, công trình thuỷ điện Cát Cát vẫn còn hoạt động, cung cấp nước cho thị trấn Sa Pa.

    Thời kỳ đó, người Pháp có mục tiêu xây dựng một “kinh đô nghỉ hè” thực sự tại đây.

  • Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Ðây là đoàn lính người Việt đi làm cho Tây, còn được gọi là Lính Tập, họ nằm dưới sự chỉ huy của người Pháp, khác với người Lính Thú là lính của Việt Nam, nằm dưới quyền chỉ huy của các Vua Quan Việt Nam.

    Có nhiều loại Lính Tập : Lính ở các tỉnh, phủ, huyện gọi là lính Khố Xanh : ngang lưng có thắt cái đaixanh phía trong áo, chỉ để lòi ra 1 mảnh. Lính của chánh phủ Ðông Dương gọi là lính Khố Ðỏ (cũng thắt đai y như vậy nhưng là màu đỏ)

    Tây đã đem người Việt qua Pháp để chiến đấu trong kỳ đệ nhất thế chiến, trong đó có 43 000 quân (với 1 123 thiệt mạng) và 49 000 nhân công(1).

    (1) Tài liệu trong sách “L’Indochine en cartes postales” của Jean Noury, nhà xuất bản publi-fusion.

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính Việt trong mặt trận sông Marne, 1918 Pháp
    Lính Việt trong mặt trận sông Marne, 1918 Pháp
    Lính Việt trồng rau trong vườn của điện Versailles
    Lính Việt trồng rau trong vườn của điện Versailles
    Một đoàn lính Việt (bên Pháp)
    Một đoàn lính Việt (bên Pháp)
    Lính Việt nấu cơm (bên Pháp)
    Lính Việt nấu cơm (bên Pháp)

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Bữa cơm (bên Pháp)
    Bữa cơm (bên Pháp)
    Trong một nhà máy chế tạo súng đạn ở Pháp
    Trong một nhà máy chế tạo súng đạn ở Pháp
    Lễ phát huy chương cho quan Việt Nam ở bệnh viện Nogent-sur-Marne
    Lễ phát huy chương cho quan Việt Nam ở bệnh viện Nogent-sur-Marne
    Quân đội Việt Nam đi diễn hành (bên Pháp) trong ngày quốc khánh Pháp (1913)
    Quân đội Việt Nam đi diễn hành (bên Pháp) trong ngày quốc khánh Pháp (1913)
    Ðoàn lính Việt viễn chinh
    Ðoàn lính Việt viễn chinh
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính Vĩnh Long

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Ngựa chiến của lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Ngựa chiến của lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Một buổi huấn luyện binh lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc
    Một buổi huấn luyện binh lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

     

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính đông dương ở Lào-Cai
    Lính đông dương ở Lào-Cai

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính đánh thuê người  Algérien
    Lính đánh thuê người Algérien
    Con lính
    Con lính
    Khánh thành đài tưởng niệm
    Khánh thành đài tưởng niệm
    Lính bị phạt
    Lính bị phạt

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Một cuộc dừng quân trong chiến dịch năm 1894
    Một cuộc dừng quân trong chiến dịch năm 1894

    Lính thuộc địa dưới thời Pháp thuộcLính thuộc địa dưới thời Pháp thuộc

    Lính đông dương ở Móng-Cái
    Lính đông dương ở Móng-Cái
    Lính phòng bị
    Lính phòng bị
    Lính thuộc địa của tiểu đoàn 10
    Lính thuộc địa của tiểu đoàn 10

    HinhanhVietNam.com sưu tầm từ free.fr